:^o
Chào các bạn,
Nhiều banks ở VN đang áp dụng một cách quá máy móc việc tính toán và xử lý rủi ro thị trường. Mình đi lang thang thấy công việc quản lý rủi ro tín dụng có vẻ là applicable nhất ở VN, tiếp đến là quản lý rủi ro hoạt động.
Riêng về quản lý rủi ro thị trường là mình thấy nản nhất, kiểu như cưỡi ngựa xem hoa. Mình thấy quản lý rr thị trường được setup theo lý thuyết và thực hành trên mây không phù hợp với điều kiện ở VN ta.
nào là setup rủi ro liên quan equity risk,interest rate risk, foreign exchange risk, commodity risk, …
Mà những thứ này ở VN đâu có mang mô hình nào tính toán được đâu, mình thấy quá khiên cưỡng và kg hợp lý, những thứ này đều bị quản lý bởi SBV, BTC… tỷ giá thì chốt, giá vàng điều khiển, giá đô thì chốt, lãi suất cũng chốt…mọi thứ đều theo chỉ đạo… do đó làm Qly rủi ro tt ở VN mình thấy giống như đang đi trên mây và xa rời thực tế một cách cực độ.
Cuối cùng nó chẳng có value added nào cho bank cả nếu so với 2 cái rủi ro kia (credit risk và operation risk)
Mình cũng đồng ý quan điểm này với bạn. Tuy nhiên việc setup vẫn phải setup. Hệ thống qlrr thị trường của NH nước ngòai tại VN mạnh (nhưng kiểm soát đều thực hiện tại Bộ phận QLRRTT tại Hongkong hay Singapore) nên ở VN cũng không học được gì ngoại trừ việc nhập dữ liệu vào rồi comment vài 3 câu.
Có ai viết khung QLRRTT cho bank mình làm chưa? Chúng ta chia sẻ đi. Ít người làm về cái này quá, nên chả biết viết gì cho ra khoai ra món.
Hiện nay, chính các cơ quan quản lý như SBV cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho các NHTM về quản lý RR thị trường. Đơn giản vì SBV cũng chỉ đang trong giai đoạn tiếp cận, do vậy, trong thời gian chờ SBV ban hành những hướng dẫn cụ thể thì hầu hết các NHTM VN đang tự “lần mò” tức là vừa làm vừa học hỏi, điều chỉnh cho phù hợp, mình thấy như vậy cũng là đúng so với thực tế.
Mình cũng đang tham gia khóa học dài hạn về Basel II của SBV tổ chức, giảng viên là cố vấn trưởng JICA, chương trình có sự tham gia của CQ TTGS NHNN và CB của G12. Khóa học sẽ trình bày chi tiết về Basel II và cách thức áp dụng vào VN. Hiện tại thì cũng chưa học được nhiều nhưng hi vọng sau khóa học này, nhiều NH có thể áp dụng được vào quản lý thực tiễn, k chỉ RRTT mà cả RRHĐ và RRTD.
Mình là người đang làm công tác QTRR TT! Đúng là hiện nay công tác quản lý rủi ro thị trường đang ở giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển. Nguyên nhân để mọi người cảm thấy QTRRTT hơi mơ hồ (bản thân tớ cũng trong suy nghĩ đấy). Theo tớ nguyên nhân là ngay cả lãnh đạo NH cũng chưa hình dung được QTRR TT là gì? QUản lý rủi ro thị trường là quản lý cái gì? Phương pháp và công cụ quản lý ntn?
Nếu ai trả lời được câu hỏi đó thì chúng ta mới thông suốt được và cảm thấy vai trò của quản trị rủi ro thị trường! Nếu có Member nào có kinh nghiệm xin được “lĩnh giáo”.
Khái niệm
Trong hoạt động hàng ngày, lợi nhuận của bank bị ảnh hưởng bởi các market factors (lãi suất, tỷ giá..). Những nhân tố này có thể biến động theo chiều hướng tốt hoặc xấu đến lợi nhuận.
Các bộ phận kinh doanh: thực hiện các hoạt động dựa trên sự biến động để take profit
QLRRTT: hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố này đến lợi nhuận để tránh xảy ra tổn thất quá lớn đối với lợi nhuận
Nói cách khác, QLRRTT sẽ phải đảm bảo các hoạt động của bộ phận kinh doanh (liên quan đến market factors) không gây tổn thất lớn cho bank
Tại sao RRTT chưa phát triển mạnh ở NHVN
Do chưa quan tâm đến ảnh hưởng của RRTT đến lợi nhuận
Lấy rủi ro lãi suất làm ví dụ:
Lãi suất ở thị trường VN biến động không mạnh như các thị trường khác
Khi lãi suât biến động theo chiều hướng xấu, có thể NH vẫn có lãi nhưng ít ai để ý đến lãi tăng hay giảm so với thời điểm trước
Đối lập với RRTT là Rủi ro tín dụng. Nó phát triển từ lâu vì nó gắn liền với hoạt động cho vay truyền thống và có thể thấy rõ nguy cơ mất vốn khi không thu hồi được nợ
QLRRTT có ý nghĩa không khi có trần của SBV?
Ngay khi có trần, markets factors vẫn có thể dao động mạnh. Mà sự biến động này sẽ gây ra ảnh hưởng đến lợi nhuận
Ngoài ra, các yếu tố này có thể dao động vượt qua trần cho phép (điều này rất hay xảy ra ở VN)
Phương pháp và công cụ quản lý
Phương pháp:
Xác định loại rủi ro thị trường tưong ứng với từng hoạt động
Đo lường mức độ rủi ro
Xác định mức độ RRTT chấp nhận được theo quan điểm từng NH
Giám sát sự tuân thủ của các bộ phận liên quan
Biện pháp xử lý khi vi phạm
Công cụ: hạn mức, scenario, stress test…
Đây chỉ là ý kiến chủ quan của mình, mong mọi người đóng góp thêm:)
Mình thấy bạn tuntun26 nói rất đúng, vấn để là ngay cả bản thân lãnh đạo cấp cao trong NH cũng chưa hình dung được QTRRTT là gì? chưa có được định hướng cụ thể. Đây cũng chính là lý do vì sao trong thời gian qua nhiều NH đã thuê các CRO là người nước ngoài vào, tuy nhiên việc này cũng k đem lại hiệu quả, đơn giản như các bạn đã nói, k thể bê nguyên các mô hình của nước ngoài vào Việt Nam được, do vậy, vai trò của NHNN trong vấn đề này là rất lớn. Tất nhiên, bản thân mỗi NHTM cũng cần chủ động tìm hiểu, tiếp cận và triển khai chứ k chỉ ngồi đó chờ NHNN.
Bạn nam mo dung làm ở bank nào thế ạ? Những điều bạn nói khá đúng, mình muốn hỏi bên bạn đã xây dựng được những j đối với RRTT rồi?
Một điểm nữa mình muốn bổ sung là tại sao RRTT chưa phát triển: chúng ta có thể đo lường các loại rủi ro liên quan đến thị trường (lãi suất, tỷ giá) tuy nhiên chúng ta chưa có công cụ để hạn chế và phòng ngừa nó. lấy ví dụ đối với rủi ro lãi suất, các công cụ phòng ngừa thường thấy trên thế giới là FRA, Interest Rate Swap, Opion on interest…tuy nhiên các công cụ này lại chưa có thị trường phái sinh VN. Do vậy mà chúng ta có thể nhận thấy nó, đo lường nó, nhưng sẽ thiếu cách để hạn chế rủi ro nó.
Thứ hai nữa mình muốn nói đến phương pháp đo lường, hầu hết mới đang dùng cách tiếp cận sơ khai để đo lường,chưa có một thống nhất chung giữa các bank, trong khi những công cụ tiên tiến hơn như VaR chẳng hạn thì phải áp dụng các phần mềm chuyên biệt - nhưng mà những người làm và hiểu về nó lại khá ít.
Thứ ba, “Chúng ta đang đi trên con 1 con đường, nhưng có vẻ lập lờ và mơ hồ về cái đích của con đường đó”
Bên mình bộ phận Market Risk mới được thành lập nên đang bắt đầu xây dựng thôi.
Framework mới chỉ có model để measure, chưa có limit và policy cũng như qui trình, quy định kèm theo
Mình cũng hoàn toàn đồng ý là sự hạn chế về công cụ hedging ở VN khiến cho mảng này chưa phát triển!
Về phương pháp đo lường: mình nghĩ tùy vào điều kiện IT của mỗi ngân hàng và structure của porfolio mà chọn model nào cho phù hợp, không nhất thiết phải có sự thống nhất chung vì không có model nào là tuyệt đối cả, cái j cũng có ưu và nhược điểm của nó. Quan trọng là sử dụng kết quả đó để quản lý ntn cho hiệu quả!
Cac ban ranh thi doc them bao cao : bai hoc ve quan tri rui ro tu cuoc khung hoang nh toan cau 2008 “risk management lessons from the global banking crisis of 2008” di, co nhieu diem hay lam. Trong do co neu 1 diem quan trong de trien khai he thong qtrr do la chua danh gia dung tam quan trong cua ha tang IT. Ban nao dang lam ve set up he thong cho trien khai qtrr se tro nen dat gia do
[FONT=Comic Sans MS][SIZE=2][SIZE=4][SIZE=2][COLOR=“#0000CD”]anh chị có thể cho e hỏi về QL RR thị trường của vietcombank hiên tại như thế nào không ak??? e là sinh viên năm cuối, đang có bài thảo luận về thực trạng quản lý rr thị trường tại VCB mà thấy khó khăn quá, hầu như trên mạng đều không có tài liệu gì cả,
anh chị nào có tài liệu hay kinh nghiệm thực tế về vấn đề này thì chỉ cho e với,thank anh chị nhiều nhiều,:)[/SIZE][/SIZE][/SIZE][/FONT]
Mình đang làm rrtt, quản lý hoạt động kinh doanh vàng và comodity và option.
Quản lý rủi ro thị trường (market risk management-MRM) bên mình gồm Giám sát rrtt và chính sách rrtt.
CS rrtt làm công việc về phân tích nghiệp vụ, đưa ra các mô hình đánh giá rủi ro, thực hành các test case, làm việc với IT để xây dựng sản phẩm quản lý rủi ro
GS rrtt: Bên mình đang thực hiện Kondor (K+)version 1 và sắp chuẩn bị go live V2, các chuyên viên sẽ giám sát hạn mức của đối tác và dealer khi K+ cảnh báo
Còn cụ thể công việc của mình: hàng ngày làmm báo cáo tổng kết giao dịch, tính PnL (real và mark to market), VaR, NOP…
Cảnh báo khi có vi phạm phát sinh
…
Nói chung, QLRR đặc biệt là rrtt là một mảng mới ở các bank hiện nay, nghiệp vụ thì nhiều lắm… Đôi lúc nó làm ta cũng cảm thấy mơ hồ, cũng tự hỏi mình đã đi đúng hướng chưa. Nhưng càng làm, càng thấy mình phải thay đổi và cải tiến nhiều…
Nói chung, MO (middle office) là 1 khâu trong quy trình giao dịch.
Chúc các bạn thành công!
cả nhà ơi! giúp em với! em là sinh vien năm 4, em đang làm bài thảo luận về quản trị rủi ro thị trường của ngân hàng MB, em vẫn chưa tìm thấy tài liệu gì. anh chị nào có kinh nghiệm có thể nói qua cho em về công tác quản trị rủi rỏ thị trường ở MB được không ạ! :). em cám ơn anh chị rất nhìu ạ!
Em thấy vấn đề về quản lý rủi ro thị trường ở Vn gặp nhiều khó khưn, một trong các yếu tố gây khó khăn đó là do việc dự báo biến động thị trường ở VN mình thường độ chính xác không cao, hơn nữa bị tác động bởi nhiều yếu tố.
Không những vậy, quan điểm về rủi ro thị trường của bank còn rất mù mờ, chưa có mục đích rõ ràng thì k thể nào định hướng chính xác được cũng là điều tất yếu. Em có đọc một vài nghiên cứu của các chuyên gia ở VN nhưng hầu hết thị trường họ nghiên cứu là thị trường nước ngoài và từ đó rút ra bài học cho nước mình nhưng lại không hề nói đến điều kiện áp dụng. Có lẽ vì vậy mà nó cũng chỉ mang tính tham khảo mà không thể đưa vào thực tiễn được.
Một vài ý kiến chủ quan của em như vậy, mong được mọi người cho nhận xét.
Cả nhà mình có ai biết cách lập mô hình và tính VaR cho danh mục tín dụng trên Excel không? Chia sẽ cho mọi người với. Minh chỉ mới tính được VaR cho FX, Bond, và Equity trên Excel thôi, còn Tín dụng thì pó tay.
Topic cổ bống dưng được bạn Masan đào nên, sẵn tiện cũng đang làm QTRR TT vào chém cho nó xôm nên nhỉ
Câu hỏi của chủ topic là “QTRR TT ở Việt Nam có khiên cưỡng và hình thức?” Thời điểm cách đây hơn 1 năm thì quả thật nó là như thế. Vậy giờ sau hơn 1 năm thì tình hình ra sao rồi. Theo ý kiến cá nhân mình thấy thì lãnh đạo và chủ các ngân hàng đã bắt đầu biết sợ nhiều hơn và quan tâm nhiều hơn đến công tác QTRR nói chung và QTRR thị trường nói riêng rồi. Trong vòng 2 năm qua, hầu hết các ngân hàng đều lập bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro. Có ngân hàng thì lập hẳn thành khối QTRR, một vài ngân hàng thì mới chỉ dừng lại ở mức độ phòng trực thuộc Khối KSNN (…). Khối QTRR bây giờ cũng được trao nhiều quyền hơn, được yêu cầu tham gia vào hầu hết các quyết định kinh doanh, hoạt động của Khối Nguồn Vốn bị ràng buộc nhiều hơn với Khối QTRR.
Quản trị RRTT có quan trọng không? Theo mình là rất quan trọng. Trước hết cần phải hiểu RRTT bao gồm RR lãi suất, RR tỷ giá, RR giá hàng hóa và cả RR thanh khoản nữa. (Các ngân hàng lớn trên TG thì RR lãi suất, RR FX và RR thanh khoản được tách riêng thành từng phòng; RRTT chỉ quan tâm đến RR giá hàng hóa). Không như RRTD và RRHD, RRTT thường gây hậu quả lớn + mang tính hệ thống (tất nhiên RRTD và hoạt động cũng có thể gây thiệt hại to lớn và mang tính hệ thống nhưng khả năng xảy ra thấp hơn). Ví dụ đơn giản là NH có thể làm ăn rất tốt, triển vọng kinh doanh khả quan nhưng quản lý thanh khoản kém thì có thể phá sản bất cứ lúc nào. Hay rủi ro lãi suất, với các NH top đầu như Vietin, Vietcom, … lượng tài sản là rất lớn, nếu quản lý các kỳ hạn lãi suất không tốt thì có thể thua lỗ cả trăm tỷ khi lãi suất lên xuống dù chỉ vài điểm %…
Vậy hoạt động QTRR nói chung và RRTT ở VN có mang tính hình thức? Không hề. Các bạn đừng nghĩ lãi suất hay tỷ giá ở Việt Nam bị quản lý bởi nhà nước thì không có rủi ro nhé. Rủi ro vẫn có thể xảy trong biên độ dao động theo quy định của nhà nước đấy. Trước đây mình không làm, hoặc làm không đến nơi là do lợi ích nhóm. Biết sai nhưng vẫn cứ vi phạm. Còn bây giờ muốn làm thì vấn đề không nằm ở phương pháp hay mô hình mà lại nằm ở dữ liệu. Các lý thuyết, mô hình, kinh nghiệm, bài học đều có sẵn trên internet. Nhưng cơ bản là chúng ta áp dụng những thứ đấy vào đâu. Chúng ta không có dữ liệu bài bản và chính xác về lãi suất, tỷ giá, … (HNX mới thử nghiệm đường cong lãi suất hơn 1 năm nay nhưng vẫn còn nhiều tranh cãi và nhiều tổ chức vẫn dùng đường cong ls của bloomberg, hay như đối với RRTD khi muốn xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng khách hàng thì cần phải có các dữ liệu quá khứ để đưa vào mô hình phân tích. Tuy nhiên vấn đề là dữ liệu quá khứ lại không chính xác do nhiều lý do khác nhau hồ sơ tín dụng của khách đã bị chỉnh sửa để đáp ứng được yêu cầu vay - cái này bạn nào làm QHKH chắc nắm rõ nhất). Dữ liệu không chính xác thì mô hình không thể trả cho kết quả đúng nên có áp dụng cũng vô ích. Các ngân hàng lớn hiện nay đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề xây dựng cơ sở dữ liệu như Vietinbank đang có dự án Datawarehouse hay BIDV cũng có dự án tới 50 triệu $ (không nhớ chính xác lắm) để xây dựng hệ thống lưu trữ dữ liệu.
Hiện tại, QTRR TT đang tập trung ở khâu hoàn thiện các chính sách, quy trình cho phù hợp với điều kiện thực tế (Basel II, III; Quy định của NHNN); xây dựng các hạn mức (tự doanh, dừng lỗ). Mà việc xây dựng các hạn mức này hiện tại cũng dựa vào kinh nghiệm và ý kiến chủ quan chứ không có dữ liệu quá khứ để có các nghiên cứu phân tích mang tính khoa học.