Tác động của thị trường vàng năm 2010 đến chính sách tiền tệ và NHTM

  • Bắt đầu Bắt đầu hungviet
  • Ngày bắt đầu Ngày bắt đầu

hungviet

Founder
TS. Đỗ Thị Thủy
VietinBank
1. Năm của những mức giá kỷ lục trên thị trường vàng
Trong những năm gần đây, giá vàng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2010 thị trường vàng (TTV) biến động bất thường với những mức giá kỷ lục liên tiếp được thiết lập. Tháng 11/2010 người dân đã chứng kiến giá vàng trong nước đạt mức giá 38 triệu đồng/lượng. Từ cuối năm 2009 đến ngày 21/12/2010 giá vàng quốc tế tăng 26%, giá vàng trong nước tăng 46%. Sự biến động của TTV đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng. Bài toán vàng, lạm phát lại một lần nữa thách thức các nhà điều hành chính sách tiền tệ.
Vậy những nguyên nhân nào khiến giá vàng trong nước tăng đột biến?


Thứ nhất: Giá vàng Việt Nam chịu tác động của giá vàng thế giới
Giá vàng thế giới đã có những bước ngảy vọt chưa từng có, lần đầu tiên trong vòng 10 năm qua, đạt cao nhất vào năm 2010, tăng gấp 5 lần. Vào trung tuần tháng 10/2010, giá vàng thế giới đã lập kỷ lục 1.379,1$/oune, tăng 22% so với đầu năm. Vàng đã trở thành tài sản đặc biệt, không chỉ các Ngân hàng trung ương (NHTW) mà các quỹ đầu tư nhỏ lẻ rất quan tâm. Giá vàng thế giới tăng do 3 nguyên nhân chính:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nhà đầu tư tìm đến vàng như một chỗ trú ẩn an toàn: Nhân tố chính kích động giá vàng là lạm phát hoành hành các nền kinh tế. Trong hai năm qua, cùng với các chiến dịch kích thích tăng trưởng kinh tế, các NHTW của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác đã tìm cách tăng chi tiêu đồng thời in thêm tiền mặt. Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào nền kinh tế toàn cầu, khiến lạm phát gia tăng.
Mặt khác, các yếu tố quốc tế đầy rủi ro sau khủng hoảng khiến vàng trở thành tài sản được ưa chuộng để tích trữ. Chiến dịch nới lỏng chính sách tiền tệ đã không thể thúc đẩy nền kinh tế và giảm thất nghiệp ở các nước như mong muốn. Thay vào đó, luồng "tiền nóng" chảy sang các nền kinh tế đang nổi, nơi chúng được đổ vào các mặt hàng giữ giá như vàng.
Tại Mỹ, sự mất lòng tin vào đồng USD khiến giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm mạnh và lãi suất tăng vọt. Cứ 18 ngày, Mỹ lại phát hành các loại giấy tờ ghi nợ tương đương giá trị sản lượng vàng khai thác 1 năm và mỗi năm nước Mỹ vay nợ tương tương 1/3 tổng số lượng vàng hiện có trên thế giới. Tại Châu Âu, nợ xấu tại một số quốc gia có biểu hiện ngày một trầm trọng hơn, thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến kênh đầu tư vàng…

Cung yếu: Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không thể đáp ứng đủ mức cầu. Dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, đơn giản vì không có nguồn quặng mới đủ để tăng sản lượng khai thác và thay thế lượng vàng đi vào tiêu dùng. Trong năm qua, sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn 20%.
Cầu bùng nổ: Bên cạnh các yếu tố cơ bản khiến giá vàng luôn theo xu thế đi lên như: nhu cầu vàng trang sức và vàng công nghiệp ngày càng tăng; tâm lý ưa chuộng vàng của một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ), thì động thái găm giữ vàng của các nhà đầu tư, các chính phủ đã khiến nhu cầu vàng năm 2010 tăng vọt. Theo Hội đồng vàng toàn cầu, tổng giá trị đầu tư vào vàng trong quý 3/2010 tăng lên mức kỷ lục 9,6 tỷ USD, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, các nhà đầu tư và một số NHTW, chủ yếu ở Trung Đông và châu Á, cũng chuyển sang dự trữ vàng. Trong năm 2009-2010, các NHTW của Ấn Độ, Sri Lanka và Cộng hòa Mauritius mua 212 tấn, Bangladesh mua 10 tấn. Iran đã tuyên bố chuyển 45 tỷ USD dự trữ sang đồng Euro và vàng. Một số quốc gia Trung Đông khác cũng chuyển 200.000 thùng dầu thô/ngày sang vàng, tương đương 140 tấn vàng/năm (nếu tính theo tỷ giá vàng/dầu thô hiện nay).
Mặc dù giá vàng lên rất cao nhưng theo tính toán của các nhà đầu tư, thị trường này vẫn còn nhiều tiềm năng. Kết quả phân tích biểu đồ chu kỳ giá vàng cho thấy, tại thời điểm ngay sau khi giá mặt hàng này chạm đỉnh, tỷ trọng cổ phiếu vàng chiếm 26% tổng giá trị cổ phiếu đầu tư toàn cầu. So với năm 2009, tỷ trọng này chỉ chiếm 0,8% - một con số không đáng kể. Do đó, các Quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ SPDR vẫn tiếp tục mua vàng với khối lượng lớn để canh giá cao bán ra kiếm lời. Hoạt động đầu tư vàng riêng lẻ của tư nhân cũng phát triển rất mạnh ở nhiều nước...


Thứ hai: Tâm lý giữ vàng
Vàng là một công cụ đầu tư, cất trữ truyền thống của người Việt Nam. Việc quy đổi tài sản theo giá trị của vàng đã trở thành thói quen lâu đời và đã được người Việt Nam lựa chọn là phương tiện đo lường, trao đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Trước những đợt biến động giá vàng trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã đổ xô đi mua vàng. Có thể thấy vàng đã len lỏi vào định giá hàng hoá, dự trữ và dẫn đến “vàng hoá”. Trên thực tế, Việt Nam cũng nằm trong những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới (Năm 2006, nhập 91 tấn vàng, năm 2007 nhập 51 tấn vàng, năm 2008 nhập 90,5 tấn vàng).
Mặt khác, cùng với khủng hoảng kinh tế, lạm phát, năm 2010 việc đầu tư vào các chứng khoán và bất động sản đều hạn chế, thậm chí thua lỗ đã khiến các nhà đầu tư Việt Nam tập trung vào vàng. Theo tính toán sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của Việt Nam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuối năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời điểm và sang năm 2010 lượng vàng trong dân cũng tăng cao. Do đó, việc nhìn nhận vai trò của vàng đối với hệ thống tài chính là hết sức quan trọng.


Thứ ba: Cung vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ
Trong khi cầu vàng trong nước tăng đột biến thì cung lại rất hạn chế. Khoảng 95% lượng vàng tiêu thụ tại Việt Nam được nhập khẩu, tuy nhiên hoạt động nhập khẩu vàng được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ NHNN. Tháng 5/2008, để làm dịu áp lực lạm phát và bình ổn nền kinh tế, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Điều này hạn chế lượng ngoại hối dùng để nhập vàng, nhưng lại tạo ra ít nhất là ý niệm khan hiếm vàng. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm đồng USD và đẩy giá USD lên cao.


Thứ tư: tỷ giá hối đoái tăng cao
Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy giữa vàng, USD.


2. Tác động của giá vàng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM)
Theo báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi số đã xuất khẩu) khoảng 1.000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng.
Mặt khác, giá vàng tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau:
- Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở TTV và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.

- Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát.

- Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát.

- Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại.

- Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và TTV đang bành trướng hiện nay.


Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Vì vậy, việc quản lý TTV, vấn đề vàng hóa và đô la hóa cần phải được nghiên cứu toàn diện hơn để có chiến lược và chính sách hợp lý.
 
3. Chính sách của Chính phủ tác động đến việc bình ổn thị trường và hoạt động kinh doanh của các NHTM
Trước tình hình tăng phi mã của giá vàng trên thế giới và trong nước, trong những năm qua Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách nhằm bình ổn tình hình thị trường.



Cụ thể:

Trước tiên, để hạn chế lượng ngoại hối nhập vàng, giảm bớt thâm hụt thương mại, tháng 5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Tuy nhiên việc ngừng cấp phép chỉ là giải pháp tình thế. Trên thực tế, giải pháp này đã có những tác động ngược đến tỷ giá và lạm phát ở mức độ nhất định và cần phải có sự điều chỉnh phù hợp. Từ đó đến nay, NHNN đã một số lần phải nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vàng, cho phép doanh nghiệp nhập khẩu khi giá vàng trong nước tăng quá nóng.

Thứ hai là đóng cửa các sàn vàng trong nước và bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM:
Trên cơ sở đánh giá hoạt động kinh doanh sàn vàng cho thấy: hoạt động này không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế - xã hội, NHNN đã yêu cầu bãi bỏ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Đồng thời, NHNN cũng huỷ bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM vì mức rủi ro của hoạt động này rất cao khi giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên độ lớn.

Sau các biện phát siết chặt nguồn cung “vàng thật” và cấm kinh doanh “vàng ảo”, NHNN thực hiện hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của NHTM trong nước:
Tháng 10/2010 NHNN ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD): chỉ cho phép các TCTD huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác.


Với mục tiêu làm giảm sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hóa, NHNN hy vọng Thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượng vàng đang nắm giữ, làm giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới sẽ khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và lãi suất đối với TCTD huy động và cho vay bằng vàng. Qua đó tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Hiệu quả của Thông tư cần phải có thời gian để đánh giá, tuy nhiên sau những biện pháp can thiệp nói trên, giá vàng trong nước không còn có những biến động bất thường như thời gian trước nữa.

4. Một số đề xuất
Trên cơ sở xem xét vấn đề vàng trong mối quan hệ biện chứng với tỷ giá và lạm phát; coi vàng là phương tiện cất trữ, lưu thông tiền tệ chứ không chỉ là hàng hóa thông thường, từ đó có giải pháp tiếp cận và xử lý vấn đề trên cơ sở dài hơi, tôn trọng quy luật khách quan của kinh tế thị trường, tập quán giữ vàng của người dân, kể cả việc xem xét thực tiễn khó khăn trong việc ngăn chặn vàng nhập lậu từ biên giới, dưới góc độ nghiên cứu, người viết có một số đề xuất sau:

Thứ nhất, căn nguyên cơ bản của cơn sốt vàng là lạm phát, do đó muốn giải quyết vấn đề của vàng thì phải có biện pháp giảm lạm phát để tăng niềm tin vào đồng nội tệ, bớt đổ xô vào gom giữ vàng, ngoại tệ.

Thứ hai, không nên thực hiện các biện pháp có tính chất hành chính, cắt giảm đột ngột, ngăn cấm mua bán vàng... Bởi như vậy sẽ càng làm vàng ra khỏi kênh chính thức. Thay vào đó, cần có bước trung gian để chu chuyển vàng (hút vàng vào ngân hàng).

Thứ ba, cần có cơ chế để chu chuyển vàng thành VND, cần có giải pháp để huy động số vàng hiện có trong dân để không lãng phí nguồn tài chính quan trọng. NHNN nên cho phép các NHTM tái chiết khấu vàng để lấy VND. Khi đó, nhà nước sẽ thu hút được vàng trong dân, đưa lượng vàng lớn trong dân vào lưu thông, giúp chu chuyển nguồn vốn bằng vàng.

Thứ tư, Nhà nước cần có chính sách quản lý TTV theo hướng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh, trên tinh thần tôn trọng quy luật thị trường. Sau khi hoàn thiện các cơ chế, biện pháp phòng ngừa rủi ro thì nên tiếp tục cho phép kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài để khơi thông dòng vốn kinh doanh trong và ngoài nước và cân bằng được rủi ro của việc huy động vàng trong nước.

Thứ năm, cần thành lập mô hình quản lý TTV tập trung do Nhà nước quản lý. Khi đó, Nhà nước có thể quản lý TTV hiệu quả, tránh những tác động tiêu cực, còn người dân và nhà đầu tư có thêm những kênh lựa chọn để đầu tư hay trao đổi loại hàng hóa đặc biệt này, tạo lập một thị trường giao dịch vàng tập trung giống thị trường chứng khoán hiện nay, tăng cường tính minh bạch, thông suốt của TTV; giảm tình trạng lũng đoạn và thao túng, góp phần tạo trật tự khách quan cho TTV; giảm nhu cầu nhập vàng và hạn chế xuất nhập lậu vàng./.
 
Back
Bên trên