daibang168
Verified Banker
Ở trường, bạn được giảng dạy rất nhiều về một mớ lý thuyết nhưng bạn có hình dung Khối/Phòng nào sẽ làm công việc j về cái mà bạn được dạy. Ví dụ, hoạt động tín dụng được làm ở đâu, quy trình thực tế như thế nào?hoạt động kinh doanh ngoại tệ do Khối/Phòng, Chi nhánh nào thực hiện và nó thực hiện như thế nào, có sự tham gia của những phòng ban nào? Như bài viết trước, một số kinh nghiệm khi bắt đầu tại một nơi làm việc mới tôi có nói các bạn nên xem xét mô hình tổ chức và chức năng các phòng ban. Điều này sẽ giúp bạn hiểu rõ mối liên hệ giữa các phòng ban và phòng ban nào làm cái j. Trong bài viết này, đơn giản tôi muốn chia sẻ cùng các bạn về hoạt động Khối Nguồn vốn (Treasury) tại một ngân hàng bình thường.
Do phải đảm bảo sử dụng vốn an toàn (như thanh khoản hệ thống, rủi ro tập trung xét trên góc độ toàn hàng...) đồng thời đảm bảo đạt hiệu quả, các ngân hàng thường quản lý vốn tập trung để có cái nhìn view về toàn hệ thống, điều này cũng tạo nên một đặc quyền riêng cho Khối Nguồn vốn, nói một cách khác, nó sinh ra đã có những quyền lực tương đối lớn.
Khối Nguồn vốn thuộc Hội sở chính của ngân hàng, chức năng chính của nó gồm:
1. Bộ phận MM (Money Market): Chỉ hội sở mới được kinh doanh trên liên ngân hàng (các chi nhánh/PGD không được thực hiện), Khối Nguồn vốn được nhận tiền gửi TCKT như bình thường, bộ phận MM làm các công việc sau:
2. Bộ phận kinh doanh ngoại tệ và hàng hóa, phái sinh: chỉ hội sở (Khối Nguồn vốn) mới được thực hiện, chi nhánh/PGD chỉ được thực hiện với khách hàng (không được thực hiện với các TCTD khác), gồm:
3. Bộ phận Giấy tờ có giá
4. Bộ phận quản lý vốn: quản lý hệ thống vốn nội bộ (như dữ trự bắt buộc của chi nhánh/phòng giao dịch, báo nguồn,...) và quản lý ngoại hối chi nhánh/phòng giao dịch, ngoài ra có thể thêm về chức năng lãi suất điều chuyển vốn nội bộ - lãi suất mua bán vốn giữa hội sở và chi nhánh (hiện các ngân hàng có xu hướng tách khối Nguồn vốn chức năng này vì nó thể dẫn tới sự bất công trong phân chia lợi nhuận giữa Khối Nguồn vốn và Chi nhánh);
5. Bộ phận Sale
6. Bộ phận hỗ trợ ALCO (có thể không đặt ở đây):
7. Bộ phận quan hệ với khách hàng định chế (FI) (Có thể không đặt ở Khối nguồn vốn)
Đối với mỗi bộ phận trên các bạn cần nắm rõ:
Tuy nhiên, lợi ích của Khối Nguồn vốn một phần quan trọng là do vị trí của nó khi nó sinh ra. Vì vậy, một ngân hàng nếu xác định lãi suất mua-bán vốn nội bộ theo hướng có lợi cho Khối Nguồn vốn có thể dẫn tới tác hại đối với sự phát triển của chi nhánh/PGD, do các chi nhánh/PGD không quan tâm tới phát triển khách hàng (cá nhân, tổ chức kinh tế)- khách hàng quyết định sự tồn tại, mở rộng và phát triển của ngân hàng. bởi họ vất vả tìm kiếm khách hàng về nhưng lợi ích lại không được phân chia công bằng, thậm chí thấp hơn Khối Nguồn vốn-đơn vị không trực tiếp tìm kiếm khách hàng nhưng lại được hưởng lợi nhuận cao hơn. Mặc dù vậy, một số trường hợp/thời kỳ để ngăn chặn vốn từ thị trường 2 sang thị trường 1, ngân hàng cần điều chỉnh chính sách lãi suất nội bộ cho phù hợp, tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Tương tự, nếu một ngân hàng xác định lãi suất nội bộ nếu có lợi cho chi nhánh/pgd sẽ dẫn tới giảm lợi nhuận rất nhiều cho ngân hàng và thiệt hại nặng cho Khối Nguồn vốn. Bởi khi đó, chi nhánh chỉ việc huy động vốn cao và gửi về nguồn vốn sẽ có lợi nhuận lớn mà an toán, trong khi đó nguồn vốn chỉ có cách đẩy thị trường 2 với lãi suất thấp khiến cho tổng thể ngân hàng bị lỗ, chi nhánh có lãi do cách tính lãi nội bộ.
Ví dụ đơn giản: chi nhánh A huy động 100 tỷ đồng, lãi suất 10% (giả sử trần lãi suất hoặc lãi suất thị trường 9%) và gửi về hội sở với lãi suất 13%/năm. Do đó, chi nhánh này cứ tích cực huy động vốn và không cần đẩy mạnh tín dụng, vẫn có con số lợi nhuận tới 3% và kê cao ngủ kỹ. Trong khi đó, nếu đem cho vay tín dụng, thì với lãi suất đầu vào 13% (bằng lãi suất nội bộ) và cho vay ra với lãi suất 16%-rất khó cho vay, được hưởng chênh lệch 3% nhưng nếu trừ đi chi phí trích lập dự phòng rủi ro chung 0,75% thì lợi ích biên còn 2,25% nhưng suốt ngày phải lo lắng về tình hình nợ quá hạn, nợ xấu, theo dõi khách hàng......
Vì vậy, lúc này, các chi nhánh/pgd sẽ thiên về hướng huy động vốn thật nhiều mà ít sử dụng vốn, dẫn tới việc toàn hệ thống huy động tăng rất mạnh, dư nợ tín dụng giảm, phải cho vay ra interbank, lãi suất đầu vào khoảng 10% trong khi đầu ra khoảng 6% (lãi suất interbank), tức toàn hệ thống lỗ 4% nhưng do chính sách lãi nội bộ thì chi nhánh vẫn có lãi khoảng 3% vì lãi nội bộ tới 13%, còn Khối nguồn vốn sẽ bị lỗ 7% (bù cho lãi của chi nhánh 3% và gưi interbank lỗ 4%). Điều này sẽ gây bất lợi cho Khối Nguồn vốn và có thể gây tác động không tốt. Tình trạng này nếu kéo dài, ngân hàng sẽ bị lỗ ngày càng nhiều, đến một lúc nào đó có thể phá sản.
Như vậy, chính sách lãi nội bộ là con dao hai lưỡi, nghiêng về bên nào đều dẫn tới thiệt hại cho ngân hàng. Ngân hàng cần có chính sách lãi suất nội bộ phù hợp để mở rộng tín dụng hay mở rộng huy động vốn, và đảm bảo cân bằng trên toàn hệ thống, vừa đảm bảo thanh khoản, vừa đảm bảo sinh lời.
Do phải đảm bảo sử dụng vốn an toàn (như thanh khoản hệ thống, rủi ro tập trung xét trên góc độ toàn hàng...) đồng thời đảm bảo đạt hiệu quả, các ngân hàng thường quản lý vốn tập trung để có cái nhìn view về toàn hệ thống, điều này cũng tạo nên một đặc quyền riêng cho Khối Nguồn vốn, nói một cách khác, nó sinh ra đã có những quyền lực tương đối lớn.
Khối Nguồn vốn thuộc Hội sở chính của ngân hàng, chức năng chính của nó gồm:
- Quản lý thanh khoản trong toàn hệ thống (bao gồm cả điều hòa, điều chuyển vốn nội bộ);
- Quản lý và kinh doanh vốn;
- Quản lý và kinh doanh ngoại tệ.
- Ngoài ra, một số ngân hàng, Khối Nguồn vốn có thể bao gồm chức năng của ALM.
1. Bộ phận MM (Money Market): Chỉ hội sở mới được kinh doanh trên liên ngân hàng (các chi nhánh/PGD không được thực hiện), Khối Nguồn vốn được nhận tiền gửi TCKT như bình thường, bộ phận MM làm các công việc sau:
- Nghiệp vụ MM (kinhh doanh tiền tệ - gồm nghiệp vụ nhận tiền gửi/đi vay; gửi tiền/cho vay): các TCTD thường vay vốn lẫn nhau trên thị trường Interbank (thị trường 2) với một số mục đích chính như: đảm bảo thanh khoản; kinh doanh chênh lệch lãi suất (thường thì vay ngắn hạn và cho vay dài hạn); ....Một lưu ý là các khoản trên Interbank mang tính chất ngắn hạn (chủ yếu ở các kỳ hạn như O/N; 1W; 2W; 1M; 2M; 3M), các kỳ hạn dài hơn thường rất ít.
- Nghiệp vụ với NHNN: OMO, vay tái cấp vốn, vay qua đêm....
- Nghiệp vụ điều chuyển tiền giữa các tài khoản NOSTRO.
2. Bộ phận kinh doanh ngoại tệ và hàng hóa, phái sinh: chỉ hội sở (Khối Nguồn vốn) mới được thực hiện, chi nhánh/PGD chỉ được thực hiện với khách hàng (không được thực hiện với các TCTD khác), gồm:
- Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
- Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh hàng hóa
- Thực hiện nghiệp vụ phái sinh
3. Bộ phận Giấy tờ có giá
- Thực hiện kinh doanh giấy tờ có giá (trong đó chủ yếu là trái phiếu)
- Đầu mối phát hành trái phiếu của ngân hàng mình và hỗ trợ các bộ phận khác trong phát hành giấy tờ có giá.....
4. Bộ phận quản lý vốn: quản lý hệ thống vốn nội bộ (như dữ trự bắt buộc của chi nhánh/phòng giao dịch, báo nguồn,...) và quản lý ngoại hối chi nhánh/phòng giao dịch, ngoài ra có thể thêm về chức năng lãi suất điều chuyển vốn nội bộ - lãi suất mua bán vốn giữa hội sở và chi nhánh (hiện các ngân hàng có xu hướng tách khối Nguồn vốn chức năng này vì nó thể dẫn tới sự bất công trong phân chia lợi nhuận giữa Khối Nguồn vốn và Chi nhánh);
5. Bộ phận Sale
6. Bộ phận hỗ trợ ALCO (có thể không đặt ở đây):
7. Bộ phận quan hệ với khách hàng định chế (FI) (Có thể không đặt ở Khối nguồn vốn)
Đối với mỗi bộ phận trên các bạn cần nắm rõ:
- Các quy định của Pháp Luật Việt nam, các quy định nội bộ
- Định hướng
- Phương tiện dùng trong giao dịch: Các ngân hàng thường giao dịch qua máy Reuter Dealing (để confirm), chat Reuter Messager., điện thoại. Ngoài ra, có thể họ dùng chat Skype, Yahoo...để trao đổi thông tin....
- Mục đích thực hiện giao dịch (như thanh khoản, lợi nhuận, trung gian.....)
- Phân cấp, ủy quyền
- Sản phẩm, dịch vụ (thực hiện những sản phẩm, dịch vụ nào, nó được mô tả ra sao-từ khái niệm, rủi ro, lợi ích, hạch toán...)
- Nhân sự của bộ phận
- Cơ chế trao đổi cập nhật thông tin trong nội bộ Khối
- Công việc hàng ngày
- Hệ thống báo cáo
- Các đơn vị liên quan: Khối Nguồn vốn, Khối Quản lý rủi ro (thị trường), Khối Kế toán, Khối Thẩm định (đối với trái phiếu); Khối Thanh toán.
Tuy nhiên, lợi ích của Khối Nguồn vốn một phần quan trọng là do vị trí của nó khi nó sinh ra. Vì vậy, một ngân hàng nếu xác định lãi suất mua-bán vốn nội bộ theo hướng có lợi cho Khối Nguồn vốn có thể dẫn tới tác hại đối với sự phát triển của chi nhánh/PGD, do các chi nhánh/PGD không quan tâm tới phát triển khách hàng (cá nhân, tổ chức kinh tế)- khách hàng quyết định sự tồn tại, mở rộng và phát triển của ngân hàng. bởi họ vất vả tìm kiếm khách hàng về nhưng lợi ích lại không được phân chia công bằng, thậm chí thấp hơn Khối Nguồn vốn-đơn vị không trực tiếp tìm kiếm khách hàng nhưng lại được hưởng lợi nhuận cao hơn. Mặc dù vậy, một số trường hợp/thời kỳ để ngăn chặn vốn từ thị trường 2 sang thị trường 1, ngân hàng cần điều chỉnh chính sách lãi suất nội bộ cho phù hợp, tránh thiệt hại cho ngân hàng.
Tương tự, nếu một ngân hàng xác định lãi suất nội bộ nếu có lợi cho chi nhánh/pgd sẽ dẫn tới giảm lợi nhuận rất nhiều cho ngân hàng và thiệt hại nặng cho Khối Nguồn vốn. Bởi khi đó, chi nhánh chỉ việc huy động vốn cao và gửi về nguồn vốn sẽ có lợi nhuận lớn mà an toán, trong khi đó nguồn vốn chỉ có cách đẩy thị trường 2 với lãi suất thấp khiến cho tổng thể ngân hàng bị lỗ, chi nhánh có lãi do cách tính lãi nội bộ.
Ví dụ đơn giản: chi nhánh A huy động 100 tỷ đồng, lãi suất 10% (giả sử trần lãi suất hoặc lãi suất thị trường 9%) và gửi về hội sở với lãi suất 13%/năm. Do đó, chi nhánh này cứ tích cực huy động vốn và không cần đẩy mạnh tín dụng, vẫn có con số lợi nhuận tới 3% và kê cao ngủ kỹ. Trong khi đó, nếu đem cho vay tín dụng, thì với lãi suất đầu vào 13% (bằng lãi suất nội bộ) và cho vay ra với lãi suất 16%-rất khó cho vay, được hưởng chênh lệch 3% nhưng nếu trừ đi chi phí trích lập dự phòng rủi ro chung 0,75% thì lợi ích biên còn 2,25% nhưng suốt ngày phải lo lắng về tình hình nợ quá hạn, nợ xấu, theo dõi khách hàng......
Vì vậy, lúc này, các chi nhánh/pgd sẽ thiên về hướng huy động vốn thật nhiều mà ít sử dụng vốn, dẫn tới việc toàn hệ thống huy động tăng rất mạnh, dư nợ tín dụng giảm, phải cho vay ra interbank, lãi suất đầu vào khoảng 10% trong khi đầu ra khoảng 6% (lãi suất interbank), tức toàn hệ thống lỗ 4% nhưng do chính sách lãi nội bộ thì chi nhánh vẫn có lãi khoảng 3% vì lãi nội bộ tới 13%, còn Khối nguồn vốn sẽ bị lỗ 7% (bù cho lãi của chi nhánh 3% và gưi interbank lỗ 4%). Điều này sẽ gây bất lợi cho Khối Nguồn vốn và có thể gây tác động không tốt. Tình trạng này nếu kéo dài, ngân hàng sẽ bị lỗ ngày càng nhiều, đến một lúc nào đó có thể phá sản.
Như vậy, chính sách lãi nội bộ là con dao hai lưỡi, nghiêng về bên nào đều dẫn tới thiệt hại cho ngân hàng. Ngân hàng cần có chính sách lãi suất nội bộ phù hợp để mở rộng tín dụng hay mở rộng huy động vốn, và đảm bảo cân bằng trên toàn hệ thống, vừa đảm bảo thanh khoản, vừa đảm bảo sinh lời.
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành: