Thách thức phát triển của Việt Nam năm 2010

  • Bắt đầu Bắt đầu hieuboi123
  • Ngày bắt đầu Ngày bắt đầu

hieuboi123

Thành viên
Việt Nam khó phồn vinh nếu trọng phát đạt hơn phát triển
Tác giả: HÀ YÊN - CAO NHậT (THựC HIệN)

(VEF) - TS Vũ Minh Khương cho rằng, lực cản lớn nhất của Việt Nam hiện giờ là sự lẫn lộn giữa phát đạt và phát triển, với sự thiên lệch nặng nề về tìm kiếm phát đạt trong khi xem nhẹ việc nâng cấp nền tảng phát triển. Chúng ta đang có nguy cơ rơi vào sự kìm hãm của vòng xoáy: khấm khá về vật chất, càng suy yếu năng lực phát triển và giảm sút về sức cạnh tranh quốc tế.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam VEF - Báo VietNamNet - đã có cuộc trò chuyện với TS. Vũ Minh Khương - Trường Đại học Quốc gia Singapore xung quanh thuyết trình của GS. Michael Porter,"cha đẻ" thuyết cạnh tranh tại Hà Nội mới đây.
Ông Vũ Minh Khương cũng chính là người cùng tham gia xây dựng Báo cáo năng lực cạnh tranh quốc gia, do Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế TƯ (Bộ KH-ĐT) phối hợp với Học viện Cạnh tranh châu Á thực hiện.
Phải tiên lượng được sự vận động của đất nước
- Báo cáo năng lực cạnh tranh quốc gia công bố mới đây chỉ ra điểm yếu là mô hình kinh tế Việt Nam không còn dư địa phát triển nữa và đang mất dần động lực tăng trưởng. Vậy, đâu là mô hình mới cho Việt Nam, có phải dựa trên 3 nguyên lý nền tảng như ông đề xuất?
Báo cáo cạnh tranh Việt Nam 2010 được soạn thảo với mục tiêu tạo ra nhận thức sâu rộng trong xã hội, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách và giới doanh nghiệp thấy rõ được tầm quan trọng của nâng cao sức cạnh tranh trong khi cố gắng thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Nâng cao sức cạnh tranh không bắt đầu từ một vài chương trình hay sang kiến cụ thể mà phải là một nỗ lực có tính hệ thống bao gồm ba cấu tầng: Tư duy (gồm những nguyên lý có tính nền tảng); Thiết kế chương trình; và Tổ chức thực hiện.
Cội nguồn của sức cạnh tranh bắt nguồn từ tư duy dựa trên ba nguyên lý nền tảng như tôi đã trình bày trong bài viết 3 nguyên lý nền tảng: thành tâm tuân thủ các nguyên tắc thị trường (trong đó hội nhập quốc tế là một nội dung quan trong); coi trọng việc nâng cấp chất lượng của hệ thống quản lý nhà nước; và dốc sức đầu tư và khai thác sử dụng nguồn vốn con người.
Thành công trong nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh không dựa trên sự phá vỡ tức thời những cái cũ mà là nỗ lực cải biến có tính hệ thống, xây dựng cái mới dựa trên ba nguyên lý nền tảng nói trên.


Phát triển kinh tế, Việt Nam cần dựa trên 3 nền tảng nguyên lý cơ bản (ảnh AP)

Ví dụ, với các DNNN, bước đi đầu tiên không nên là tư nhân hóa mà là tạo cơ chế buộc họ phải vận hành theo kỷ luật thị trường, hiện đại hóa về quản trị và quản lý, minh bạch về kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh. Tôi nghĩ chúng ta cần có chỉ số đánh giá rất kỹ chất lượng hoạt động hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực này và công bố cho toàn xã hội theo dõi giám sát. Tiếp theo, các DNNN đều phải niêm yết trên thị trường chứng khoán và nhà nước nên bán cổ phần cho các nhà đầu tư tư nhân để vừa có sự giám sát nghiêm khắc của thị trường chứng khoán, vừa có thêm nguồn vốn đầu tư vào giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng.
Tư duy và hành động với sự coi trọng đặc biệt nỗ lực nâng cấp chất lượng quản lý nhà nước có sức cải biến xã hội rất lớn. Mỗi nỗ lực này đều có tính thông điệp rất lớn trong toàn dân về hiện trạng và qui tắc hành xử trong xã hội ta: Trọng hiền tài hay bị lèo lái bởi chạy chọt phe cánh; dốc lòng vì nước hay vụ lợi cá nhân; chìa khóa cho sự thăng tiến là trung thực và dũng khí hay khôn khéo luồn lọt.
Thứ ba là vấn đề con người, phải khai thác trước, trân trọng trước, bởi đầu tư cho đào tạo mà không chịu dùng người tài cũng không tốt. Cầu phải đi trước, hướng đạo cho cung. Đó là nền tảng cho một thể chế phát triển trong tương lai. Nâng cao năng lực công nghệ cũng là một khía cạnh trong khai thác và đầu tư vào nguồn lực con người.
- Ông có thể phác thảo về bộ máy quản lý nhà nhà nước hiện đại trong tương lai đó?
Bộ máy quản lý nhà nhà nước hiện đại là một hệ thống xây dựng trên ba trụ cột cơ bản: nguồn nhân lực ưu tú, cấu trúc tổ chức mạnh mẽ, và thể chế pháp lý hiện đại.
1. Nguồn nhân lực ưu tú. Việc này đòi hỏi phải phát hiện người tài, thu hút và tạo điều kiện cho họ làm việc hết sức mình. Trong đó chọn người có sự thôi thúc đóng góp, đảm bảo thu nhập tốt, và bố trí công việc phát huy hết khả năng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
2. Cấu trúc tổ chức mạnh. Chọn được người tài mà cấu trúc tổ chức sai, người lãnh đạo thiếu tầm nhìn và phẩm chất, cơ chế đánh giá-đề bạt không xác đáng cũng là không đem lai kết quả tốt. Đây là vấn đề tổ chức (organizational structure and incentives), chứ không phải là nhân sự (human resources). Nó giống như đội bóng đá có nhiều cầu thủ giỏi nhưng sẽ đá không hay nếu bố trí đội hình không đúng; đánh giá - khen thưởng bị thiên vị; huấn luyện viên không sáng suốt.
3. Hệ thống pháp lý hiện đại. Tôi rất thích lời gợi ý của người đại diện hãng Intel trong buổi thảo luận về báo cáo cạnh tranh: tiêu chí hàng đầu hấp dẫn Intel vào đầu tư vào một nước không phải là lao động rẻ mà là khả năng cho nhà đầu tư tiên lượng được sự vận động phát triển của mình. Yếu tố này chỉ có thể có được nếu chúng ta dốc sức xây dựng một thể chế pháp lý hiện đại.
Ba lực cản phát triển
- Nhưng lâu nay, dường như Việt Nam vẫn lúng túng về mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thưa ông?
Lực cản lớn nhất của Việt Nam hiện giờ một là tư duy lẫn lộn giữa phát đạt và phát triển, không nhìn thấy những sự thúc bách về phát triển, để Việt Nam có sức cạnh tranh lâu dài hay không, có đẳng cấp, vị thế cao không.
Bán đất, đào mỏ, phá rừng, xuất khẩu lao động thô sơ... có thể tạo ra sự phát đạt ấn tượng nhất thời, nhưng không tạo nên phát triển. Phát triển dựa trên sự tự trọng cá nhân, ý thức trách nhiệm xã hội, và nỗ lực hợp tác.
TS. Vũ Minh Khương - ĐH Quốc gia Singapore (ảnh Cao Nhật)
Do vậy, thiên lệch mù quáng về phát đạt có thể dẫn đến nảy sinh nguy cơ làm thụt lùi phát triển. Đây đó đã xuất hiện những ca thán về ý thức người dân hay hiện tượng vô cảm ở một số cán bộ, công chức trong bộ máy cần được coi là những chỉ dấu đáng quan ngại.
Tôi cũng đọc báo cáo của nhiều địa phương, trong đó chỉ nhấn mạnh đến giảm nghèo và tăng trưởng GDP, tức là phát đạt thôi, mà không nghĩ đến phát triển. Tại sao chúng ta không đo ý thức người dân, sự thấu cảm của bộ máy công quyền, và lòng tin của dân đối với lãnh đạo - những thước đo cơ bản của một quá trình phát triển?
Người Việt Nam mình giờ có tự trọng cao hơn hay không, có trách nhiệm với đất nước cao hơn hay không, có tôn trọng đồng nghiệp hơn hay không, có tinh thần hợp tác cao hơn hay không?... Cần phải xem xét, trả lời một cách thấu đáo những câu hỏi quan trọng này.
Lực cản thứ hai là lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm. Đã có nhiều tiếng nói tâm huyết của các bậc lão thành, các cựu lãnh đạo đáng kính, các nhân sĩ trí thức cảnh báo về vấn đề này. Nếu không có những giải pháp kiểm soát hữu hiệu và căn cơ thì tổn thất của đất nước của dân tộc sẽ không thể lường hết được.
Điều thứ ba trong bối cảnh toàn cầu hoá, người Việt Nam rất linh hoạt nhưng lại chỉ nghĩ đến mình nên sinh khí dân tộc không được dung dưỡng phát huy, tản mát khắp nơi.
Để thành một dân tộc đủ ăn đủ mặc, mức trung bình đối với Việt Nam không phải là khó. Nhưng trong những điều tổn thất mà chúng ta hiện đang phải đối đầu, thì lớn nhất không phải về môi trường xuống cấp hay qui hoạch lộn xộn mà là ý chí dân tộc có dấu hiệu bị thui chột, đó là điều đau xót.
Cho nên cái gốc không thể trách người dân được mà phải trách người trí thức, tự mình phải vượt lên được điều đó, sau là người lãnh đạo và doanh nhân, đó là những lực lượng có thể cải biến được xã hội.
Bài toán của sức cạnh tranh lớn như vậy. Phải cảm thấy được sự thôi thúc của người Việt Nam. Thấy rằng đây là vấn đề nội bộ của dân tộc mình. Không tổ chức hay học giả nước ngoài nào có thể giúp chúng ta vượt qua thách thức sống còn này.
Chính phủ mạnh phải biết "ngồi" trên con hổ thị trường
- Bản báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam cũng chỉ ra rằng, Chính phủ cần nhận thức đúng vai trò của mình trong phát triển kinh tế, ông nghĩ sao về điều này?
Điều đó hoàn toàn đúng. Một chính phủ mạnh là một chính phủ có thể dung dưỡng, phối thuộc một cách hoàn hảo với lực thị trường. Hai bàn tay phải vỗ với nhau, chứ còn định khóa lại thị trường để bao biện làm thay thì khó.
Kinh nghiệm từ Singapore là mọi việc Chính phủ đều ngồi trên con hổ thị trường thì mới hiệu quả, từ việc xây nhà thu nhập thấp, trồng cây xanh... đều thị trường hóa, những gì thị trường không làm được thì Chính phủ sẽ kích thêm. Rõ ràng, mặc dù có nhà nước can thiệp nhưng tối đa tận dụng được thị trường.
Chính phủ mạnh cần phải biết "ngồi" trên con hổ thị trường (ảnh WSJ)
- Lúc trước ông có nhắc đến khái niệm tiên lượng (predictability) được sự vận động. Vậy làm sao có thể làm được điều đó?
Predictability bắt đầu từ những điều đơn giản, từ trong điều hành kinh tế vĩ mô, như thời gian tới tỷ giá sẽ mạnh lên hay yếu đi, hay ổn định; lạm phát sẽ ra sao... để từ đó kiểm soát được tỷ giá và lạm phát. Sau đó là nguồn nhân lực, bây giờ có thể Việt Nam không thiếu nhưng liệu có ai đảm bảo rằng 3 năm tới chúng ta sẽ đáp ứng được?.
Thứ ba là hạ tầng cơ sở, về mặt dịch vụ, nhà ở, quy hoạch, cảng, đường xá, sân bay... những cái này là có thể dự tính được.
Điều đó cho thấy, quy hoạch mềm là rất quan trọng.
Thu hút vốn: Cần chiến lược "con ong Chúa"
- Ông đánh giá như thế nào về chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam từ trước đến nay?
Việt Nam đang trải thảm đỏ nhặt từ ong thợ bé đến ong vò vẽ, thậm chí, có cả ruồi nhặng lẫn vào trong thu hút đầu tư mà không biết. Có thể là do mình thiếu con mắt tinh tường, thiếu tầm nhìn chiến lược, không biết lựa chọn các "con ong chúa".
Ưu đãi là phải dành cho con ong chúa, ong thợ cứ thế sẽ tự theo ong chúa mà vào.
Một điểm yếu nữa là mình không thôi thúc, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có ở Việt Nam nâng cấp mình lên, hướng tới các hoạt động có giá trị gia tăng cao hơn. May mặc là cứ may mặc, khai thác ở cặn đáy thôi chứ họ không nghĩ đến phải thiết kế, sản xuất nguyên vật liệu ở Việt Nam.
Thông thường, từ giai đoạn thấp lên cao các nhà đầu tư nước ngoài cần một cú hích nào đó, hoặc chính sách, hoặc động viên hay hỗ trợ nhân lực.
Ngoài ra, trong ý tưởng của GS.Michael Porter cũng nhấn mạnh, đó là tính tổ cụm công nghiệp. Cần đặc biệt coi trọng sự gắn kết hữu cơ giữa doanh nghiệp FDI, tư nhân và nhà nước, làm sao nỗ lực giúp các doanh nghiệp FDI hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế trong nước, ưu đãi để họ đặt hàng các doanh nghiệp tư nhân, trên cơ sở đó họ cũng phát triển.
Khi đó, chính sách sẽ khuyến khích tư nhân tiếp thu công nghệ, trong nước phải tạo được chuỗi giá trị ngay tại thị trường nội địa của mình thì mới tạo được sự cạnh tranh.
- Một vấn đề quan trọng hiện nay là phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, ông nghĩ sao về điều này?
Một khi mình chưa có sự thông tuệ về mặt chiến lược và chưa có sự trung thực, thôi thúc hết lòng ở tất cả các cấp thì phân cấp hay tập trung đều để lại hệ quả xấu.
Cho nên, để giải quyết được điều này đầu tiên không phải là phân cấp hay không mà cần quay lại với 3 yếu tố căn bản:
Phải thông tuệ để hiểu rõ các nhà đầu tư nước ngoài có chiến lược với Việt Nam ra sao, họ muốn gì, cần gì ở Việt Nam?
Phải có người đứng ra gánh trách nhiệm nhạc trưởng trong từng chương trình quan trọng. Phân cấp đến đâu, thế nào trên cơ sở cùng tạo nên một bản nhạc hùng tráng chứ không phải phân cấp để mỗi người lao vào cuộc tranh giành chụp giật cho lợi ích cục bộ.
Con người phải rất trung thực không bị lợi ích cá nhân, nếu không thì không thể nào thành công. Thông tuệ, hiến dâng, và được đãi ngộ tốt với sự trân trọng của toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để tạo ra bộ máy công quyền mạnh, từ trung ương đến địa phương.


- Vậy, theo ông, chiến lược thu hút vốn FDI của Việt Nam cần thay đổi như thế nào?
Tôi thấy Việt Nam thiếu chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài. GS Porter nói rất rõ: lựa chọn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình chứ không phải lựa chọn thu hút đầu tư để có con số cao để báo cáo.
Bây giờ cần phải thay đổi một số chỉ số đánh giá, chứ đừng tự mình chui vào cái bẫy trào lưu mậu dịch tự do mà không biết. Đừng bị trói buộc bởi các con số cứng nhắc ít ý. Chúng không đo được độ phát triển của địa phương và cả quốc gia có cao hơn không, độ cạnh tranh của đất nước có được gia cường hay không, cấu kết của nền kinh tế có tốt hơn trước hay không. Chúng ta cần những chỉ số tinh tế hơn, sâu sắc hơn để đánh giá trong tăng trưởng và phát triển.
- Ông vừa nhắc đến cái bẫy trào lưu thương mại tự do. Trong một bài viết gần đây, GS. Trần Văn Thọ đã nói về cái bẫy này. Có đúng là cái bẫy đó đáng lo ngại? Việt Nam cần đối phó thế nào, thưa ông?
Tôi nghĩ GS. Trần Văn Thọ rất đúng trong chỉ ra điều lo ngại này. Trong môi trường thế giới tự do, cái mình được thụ hưởng hưởng là dựa trên lợi thế của mình. Nếu sức kiến tạo giá trị thấp, chỉ biết tạo ra giá trị ngắn hạn để kiếm ăn thì rất dễ rơi vào bẫy đó.
Người đầu tư họ muốn tìm giá trị, đó là điều tự nhiên, điều quan trọng là chính bản thân chúng ta có nhận ra và ý thức được điều này khi động thái của trào lưu mậu dịch tự do diễn ra hằng ngày rất khốc liệt.
Khác biệt không hẳn là công nghệ mới
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Back
Bên trên