Phân biệt các nghiệp vụ: Bao thanh toán - Nhờ thu - Chiết khấu thương phiếu

  • Bắt đầu Bắt đầu jazz
  • Ngày bắt đầu Ngày bắt đầu

jazz

Thành viên
Chào các bác


Em mới đọc về một sô nghiệp vụ ngân hàng như: Nhờ thu, chiết khấu thương phiếu, Bao thanh toán, sao em thấy mấy cái này giống nhau thế. Có sự khác biệt nào về trách nhiệm của phía NH trong các giao dịch đó không ạ ???
Mong bác chỉ giúp!
Em xin cảm ơn !
 
1 . Nghiệp vụ nhờ thu :
- Là phương thức thanh toán mà bên bán ( xuất khẩu ) sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ , ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua ( nhà xuất khẩu ) để được thanh toán , chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác
- Trong nghiệp vụ này về cơ bản thì có sự tham gia của 2 ngân hàng : Ngân hàng nhờ thu và ngân hàng thu hộ ( ngoài ra còn có ngân hàng xuất trình ) , nôm na thì ngân hàng nhờ thu là ngân hàng tiếp xúc với bên bán , còn ngân hàng thu hộ sẽ tiếp xúc với bên mua
- Trách nhiệm của ngân hàng :
+ Ngân hàng nhờ thu : Sau khi nhận đơn yêu cầu nhờ thu + chứng từ của người bán thì ngân hàng sẽ lập và gửi lệnh nhờ thu cùng chứng từ cho ngân hàng thu hộ ( ngoài ra thì ngân hàng nhờ thu cũng thu phí dịch vụ từ nhà xuất khẩu luôn )
+ Ngân hàng thu hộ : Nhận chứng từ , thông báo cho bên mua , rồi sau đó sẽ chuyển tiền lại cho ngân hàng nhờ thu ( nếu người mua thanh toán ) hoặc hối phiếu ( nếu bên mua chỉ chấp nhận thanh toán )

2. Nghiệp vụ bao thanh toán :
_ Là việc ngân hàng : mua lại các khoản phải thu chưa đến hạn , và cung cấp cho người bán các dịch vụ như : (1) tài trợ vốn ngắn hạn , (2) dịch vụ thu hộ tiền từ người mua , (3) dv quản lý sổ sách kế toán bán hàng , (4) dv đảm bảo rủi ro tín dụng
- Ngân hàng sau khi mua các khoản phải thu của người bán ( nhờ trừ đi các %chiết khấu và hoa hồng ) thì sẽ tiến hành đòi tiền người mua ( lúc này ngân hàng được coi là chủ nợ đối với người mua ) , và cuối cùng là trả lại cho người bán phần còn lại ( chênh lệch giữa phần thu được từ người mua và phần trả cho người bán ( bao gồm cả hoa hồng , phí dịch vụ của ngân hàng )

3. Chiết khấu thương phiếu
- Là việc ngân hàng mua lại các giấy tờ có giá với 1 mức giá chiết khấu từ người bán và đợi đến ngày tới hạn để thu nợ từ người phát hành giấy tờ có giá này ( hoặc ngân hàng có thể xuất trình cho ngân hàng TW để được tái chiết khấu )
 
Cảm ơn bác Ngơ Siêu Nhân!
Giờ em đã có thể phần nào phân biệt được 3 nghiệp vụ đó rồi.
Chúc bác buổi sáng tốt lành :D
 
Trong nghiệp vụ bao thanh toán và chiết khấu các giấy tờ có giá nếu sau đó NH không thu được tiền hoặc thu được không đủ thì xử lý như thế nào nhỉ, có đòi tiền người yêu cầu bao thanh toán hay người yêu cầu chiết khấu không nhỉ? Nhờ mọi người giúp đỡ vấn đề này.
 
Ở nghiệp vụ này ,trong trường hợp NH ko thu dc tiền hoặc thu dc ko đủ thì hạch toán vào phần nợ xấu khó đòi .Nhưng thông thường,khi NH chiết khấu thì các GTCG này phải luôn đảm bảo tính thanh khoản cao .Đối với ng/vụ bao thanh toán cũng vậy .NH thực hiện dựa trên cơ sở đảm bảo qua hình thức : thế chấp , bảo lãnh TS ...
 
Nếu phân theo tính chất có thể truy đòi thì bao thanh toán được chia thành miễn truy đòi ( nonrecourse) và truy đòi ( recourse) tùy theo thỏa thuận.
Còn chiết khấu thì được quyền truy đòi theo pháp luật.
Vũ Anh Khoa
Đại học ngân hàng tpHCM
 
1 . Nghiệp vụ nhờ thu :
- Là phương thức thanh toán mà bên bán ( xuất khẩu ) sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ , ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua ( nhà xuất khẩu ) để được thanh toán , chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác
- Trong nghiệp vụ này về cơ bản thì có sự tham gia của 2 ngân hàng : Ngân hàng nhờ thu và ngân hàng thu hộ ( ngoài ra còn có ngân hàng xuất trình ) , nôm na thì ngân hàng nhờ thu là ngân hàng tiếp xúc với bên bán , còn ngân hàng thu hộ sẽ tiếp xúc với bên mua
- Trách nhiệm của ngân hàng :
+ Ngân hàng nhờ thu : Sau khi nhận đơn yêu cầu nhờ thu + chứng từ của người bán thì ngân hàng sẽ lập và gửi lệnh nhờ thu cùng chứng từ cho ngân hàng thu hộ ( ngoài ra thì ngân hàng nhờ thu cũng thu phí dịch vụ từ nhà xuất khẩu luôn )
+ Ngân hàng thu hộ : Nhận chứng từ , thông báo cho bên mua , rồi sau đó sẽ chuyển tiền lại cho ngân hàng nhờ thu ( nếu người mua thanh toán ) hoặc hối phiếu ( nếu bên mua chỉ chấp nhận thanh toán )

2. Nghiệp vụ bao thanh toán :
_ Là việc ngân hàng : mua lại các khoản phải thu chưa đến hạn , và cung cấp cho người bán các dịch vụ như : (1) tài trợ vốn ngắn hạn , (2) dịch vụ thu hộ tiền từ người mua , (3) dv quản lý sổ sách kế toán bán hàng , (4) dv đảm bảo rủi ro tín dụng
- Ngân hàng sau khi mua các khoản phải thu của người bán ( nhờ trừ đi các %chiết khấu và hoa hồng ) thì sẽ tiến hành đòi tiền người mua ( lúc này ngân hàng được coi là chủ nợ đối với người mua ) , và cuối cùng là trả lại cho người bán phần còn lại ( chênh lệch giữa phần thu được từ người mua và phần trả cho người bán ( bao gồm cả hoa hồng , phí dịch vụ của ngân hàng )

3. Chiết khấu thương phiếu
- Là việc ngân hàng mua lại các giấy tờ có giá với 1 mức giá chiết khấu từ người bán và đợi đến ngày tới hạn để thu nợ từ người phát hành giấy tờ có giá này ( hoặc ngân hàng có thể xuất trình cho ngân hàng TW để được tái chiết khấu )
Mình bổ sung thêm phần bao thanh toán của bác này cho rõ ràng hơn ạ :
Quy trình của nghiệp vụ này 1. Bán hàng giao hàng cho người mua 2. người bán chuyển nhượng các khoản phải thu cho ngân hàng theo hợp đồng đã ký 3. NH tạm ứng tiền hàng cho người bán và tiến hành các thủ tục đòi tiền người mua 4. NH tất toán phần còn lại cho người bán sau khi trừ đi chi phí bao thanh toán :D
 
cho mình hỏi tai sao nghiệp vụ bao thanh toán có khá nhiều ưu điểm trong TTQT nhưng lại chưa phát triển nhiều tại VN?
 
Back
Bên trên