nhankythu
Thành viên tích cực
Khó có thể hình dung được một phụ nữ gầy gò với một chiếc xẻng
cùn dưới cái nắng như thiêu lại có thể đào ao nuôi cá được. Câu chuyện kể về niềm
tin và tình yêu vô bờ bến của người mẹ dành cho con.
Ngôi làng nơi tôi được cử tới công tác nằm lọt trong một thung lũng vùng trung
Zaire. Làng chỉ toàn những túp lều lá lụp xụp, dân chúng già trẻ lớn bé đều đi
chân trần. Thế kỷ 20 dường như đã lướt qua và bỏ quên ngôi làng này. Ở đây thay
cho diêm quẹt người ta dùng đá và bùi nhùi để lấy lửa.
Nhiệm vụ tôi được giao khi tới đây là giúp người dân tìm cách cải thiện chế độ
dinh dưỡng. Người đầu tiên tới gặp tôi là một phụ nữ. Chị ta cao và khẳng khiu
như một cây củi. Tuy mới xấp xỉ 30 tuổi nhưng khuôn mặt chị khắc khổ nhăn nheo.
Chồng chết, người phụ nữ này đầu tắt mặt tối nuôi ba đứa con. “Cô làm ơn chỉ
cho tôi cách nuôi cá. Các con tôi cần có cá ăn, có áo mặc”, người phụ nữ khẩn
khoản. “Được”, tôi đáp “Nhưng trước tiên chị phải đào ao”. “Sẽ có ao”, người phụ
nữ đáp. “Chị làm cách nào để đào ao? Ở đây làm gì có xe xúc”, tôi nói. “Tôi
dùng thứ này”, người đàn bà đáp và chìa cho tôi xem chiếc xẻng cùn
Đào ao bằng xẻng! Mà lại chỉ có một người làm! Tôi không tin là người phụ nữ
này làm được. Bạn cứ tưởng tượng mà xem: đầu tiên, bạn phải nhấn cho xẻng ngập
xuống đất cho tới tận cán, sau đó bẩy xẻng đất lên, hất (hoặc bốc, gánh hay bê
tùy ý) xẻng đất đó ra xa ít nhất là 10m để đắp lên thành bờ ao. Kiến thức toán
học cho tôi biết rằng, để đào được một cái ao cỡ nhỏ bạn sẽ phải thực hiện ít
nhất 50.000 xẻng đất đầy vun. Nếu không, bạn sẽ phải còng lưng đào gấp đôi. Con
đường thoát khỏi nghèo nàn của một người phụ nữ Phi châu quả chẳng dễ dàng chút
nào.
Đối với tôi, mỗi lần ghé qua kiểm tra công việc đào ao của người phụ nữ này là
một lần tim tôi nhói đau. Dưới trời nắng như đổ lửa, chị ta vẫn miệt mài đào từng
xẻng đất. Nhìn bàn chân gầy guộc, đen nhẻm và nứt nẻ của chị đạp chiếc xẻng ngập
xuống đất, nhìn bộ váy áo vá chằng vá đụp của chị, nhìn ba đứa con chị ngồi núp
nắng dưới mấy tàu lá chuối bị gió quạt tơi tả, tôi cảm thấy mình như có lỗi. Một
hôm, cầm lòng không nổi, tôi bảo: “Chị để tôi làm giúp xem sao”. “Ồ không,
Sara. Công việc này quá nặng đối với cô”, người phụ nữ đáp. “Thì chị cứ nghỉ
tay một lúc đi”, tôi nói. Chị ta nhún vai đưa cho tôi chiếc xẻng.
Tôi bắt đầu đào. Đạp xuống, hất lên. Tốt!. Tiếp tục đạp xuống, hất lên. Tôi vừa
làm vừa thầm đếm. Dường như công việc không nặng nhọc như tôi tưởng. Vài phút
sau, tôi bắt đầu thở dốc, mắt tôi hoa lên trước ánh nắng mặt trời châu Phi. Mồ
hôi ướt sũng áo. Ôi giá mà tôi đánh trần được như đám đàn ông thì tôi đã làm từ
lâu rồi! “Thôi, cô để tôi làm”, người phụ nữ nói. “Không. Chị để tôi”. Phải, nếu
tôi không ra tay, làm sao nói được dân làng? Đào chừng 20 phút, chân tay tôi rã
rời không chịu nghe lệnh của tôi nữa. Nhưng tôi vẫn cố, dù ít dù nhiều. Chừng
được một tiếng đồng hồ, tôi đành buông xẻng, ngồi phịch xuống đất thở hồng hộc.
Người phụ nữ nhặt lấy xẻng tiếp tục đào. Lầm lì không nói lấy một lời, nhưng
tôi thấy rõ lòng quyết tâm của chị ta thật đáng nể.
Sáng hôm sau gặp lại, tôi thấy bàn tay người phụ nữ bỗng rộp. “Chị nên nghỉ ít
bữa kẻo chị bệnh mất”, tôi khuyên. “Không. Tôi phải đào xong cho kịp trước khi
mưa xuống. Tôi quen rồi”, chị đáp. Cứ thế, ngày qua ngày, tuần nối tiếp tuần,
chả mấy chốc đã là nửa năm. Cái ao đã thành hình, một chiều chừng chục mét, chiều
kia gấp đôi. Mùa mưa xích đạo tuôn như trút nước. Thay vì phơi nắng, người phụ
nữ lại lóp ngóp dưới mưa khơi mương cho nước chảy vào ao.
Tôi đã cùng chị run rẩy thả lứa cá đầu tiên xuống ao. Sáu tháng sau, chúng tôi
mừng nhảy chân sáo reo hò như trẻ con bên bờ ao khi mẻ cá đầu tiên cân nặng 97
ký. Buổi trưa hôm đó, bên bếp lửa trong căn lều của mình, chị lặng lẽ ngắm ba đứa
con bu lấy mấy con cá nướng. Trên gương mặt đen đủi nhăn nheo nhưng đầy nghị lực
của chị, lần đầu tiên từ khi quen nhau tôi thấy thấp thoáng một nụ cười.
Nguồn:st
cùn dưới cái nắng như thiêu lại có thể đào ao nuôi cá được. Câu chuyện kể về niềm
tin và tình yêu vô bờ bến của người mẹ dành cho con.
Ngôi làng nơi tôi được cử tới công tác nằm lọt trong một thung lũng vùng trung
Zaire. Làng chỉ toàn những túp lều lá lụp xụp, dân chúng già trẻ lớn bé đều đi
chân trần. Thế kỷ 20 dường như đã lướt qua và bỏ quên ngôi làng này. Ở đây thay
cho diêm quẹt người ta dùng đá và bùi nhùi để lấy lửa.
Nhiệm vụ tôi được giao khi tới đây là giúp người dân tìm cách cải thiện chế độ
dinh dưỡng. Người đầu tiên tới gặp tôi là một phụ nữ. Chị ta cao và khẳng khiu
như một cây củi. Tuy mới xấp xỉ 30 tuổi nhưng khuôn mặt chị khắc khổ nhăn nheo.
Chồng chết, người phụ nữ này đầu tắt mặt tối nuôi ba đứa con. “Cô làm ơn chỉ
cho tôi cách nuôi cá. Các con tôi cần có cá ăn, có áo mặc”, người phụ nữ khẩn
khoản. “Được”, tôi đáp “Nhưng trước tiên chị phải đào ao”. “Sẽ có ao”, người phụ
nữ đáp. “Chị làm cách nào để đào ao? Ở đây làm gì có xe xúc”, tôi nói. “Tôi
dùng thứ này”, người đàn bà đáp và chìa cho tôi xem chiếc xẻng cùn
Đào ao bằng xẻng! Mà lại chỉ có một người làm! Tôi không tin là người phụ nữ
này làm được. Bạn cứ tưởng tượng mà xem: đầu tiên, bạn phải nhấn cho xẻng ngập
xuống đất cho tới tận cán, sau đó bẩy xẻng đất lên, hất (hoặc bốc, gánh hay bê
tùy ý) xẻng đất đó ra xa ít nhất là 10m để đắp lên thành bờ ao. Kiến thức toán
học cho tôi biết rằng, để đào được một cái ao cỡ nhỏ bạn sẽ phải thực hiện ít
nhất 50.000 xẻng đất đầy vun. Nếu không, bạn sẽ phải còng lưng đào gấp đôi. Con
đường thoát khỏi nghèo nàn của một người phụ nữ Phi châu quả chẳng dễ dàng chút
nào.
Đối với tôi, mỗi lần ghé qua kiểm tra công việc đào ao của người phụ nữ này là
một lần tim tôi nhói đau. Dưới trời nắng như đổ lửa, chị ta vẫn miệt mài đào từng
xẻng đất. Nhìn bàn chân gầy guộc, đen nhẻm và nứt nẻ của chị đạp chiếc xẻng ngập
xuống đất, nhìn bộ váy áo vá chằng vá đụp của chị, nhìn ba đứa con chị ngồi núp
nắng dưới mấy tàu lá chuối bị gió quạt tơi tả, tôi cảm thấy mình như có lỗi. Một
hôm, cầm lòng không nổi, tôi bảo: “Chị để tôi làm giúp xem sao”. “Ồ không,
Sara. Công việc này quá nặng đối với cô”, người phụ nữ đáp. “Thì chị cứ nghỉ
tay một lúc đi”, tôi nói. Chị ta nhún vai đưa cho tôi chiếc xẻng.
Tôi bắt đầu đào. Đạp xuống, hất lên. Tốt!. Tiếp tục đạp xuống, hất lên. Tôi vừa
làm vừa thầm đếm. Dường như công việc không nặng nhọc như tôi tưởng. Vài phút
sau, tôi bắt đầu thở dốc, mắt tôi hoa lên trước ánh nắng mặt trời châu Phi. Mồ
hôi ướt sũng áo. Ôi giá mà tôi đánh trần được như đám đàn ông thì tôi đã làm từ
lâu rồi! “Thôi, cô để tôi làm”, người phụ nữ nói. “Không. Chị để tôi”. Phải, nếu
tôi không ra tay, làm sao nói được dân làng? Đào chừng 20 phút, chân tay tôi rã
rời không chịu nghe lệnh của tôi nữa. Nhưng tôi vẫn cố, dù ít dù nhiều. Chừng
được một tiếng đồng hồ, tôi đành buông xẻng, ngồi phịch xuống đất thở hồng hộc.
Người phụ nữ nhặt lấy xẻng tiếp tục đào. Lầm lì không nói lấy một lời, nhưng
tôi thấy rõ lòng quyết tâm của chị ta thật đáng nể.
Sáng hôm sau gặp lại, tôi thấy bàn tay người phụ nữ bỗng rộp. “Chị nên nghỉ ít
bữa kẻo chị bệnh mất”, tôi khuyên. “Không. Tôi phải đào xong cho kịp trước khi
mưa xuống. Tôi quen rồi”, chị đáp. Cứ thế, ngày qua ngày, tuần nối tiếp tuần,
chả mấy chốc đã là nửa năm. Cái ao đã thành hình, một chiều chừng chục mét, chiều
kia gấp đôi. Mùa mưa xích đạo tuôn như trút nước. Thay vì phơi nắng, người phụ
nữ lại lóp ngóp dưới mưa khơi mương cho nước chảy vào ao.
Tôi đã cùng chị run rẩy thả lứa cá đầu tiên xuống ao. Sáu tháng sau, chúng tôi
mừng nhảy chân sáo reo hò như trẻ con bên bờ ao khi mẻ cá đầu tiên cân nặng 97
ký. Buổi trưa hôm đó, bên bếp lửa trong căn lều của mình, chị lặng lẽ ngắm ba đứa
con bu lấy mấy con cá nướng. Trên gương mặt đen đủi nhăn nheo nhưng đầy nghị lực
của chị, lần đầu tiên từ khi quen nhau tôi thấy thấp thoáng một nụ cười.
Nguồn:st