Hóa giải bài toán nợ xấu- Thời báo ngân hàng

Black

Verified Banker
Có thể nói, ngân hàng không phải là tác giả của các khoản nợ xấu. Bản chất của nợ xấu là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu thường tăng nhanh khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng khoảng.

Bài 1: Bức tranh nợ xấu hôm nay


LTS:
Nợ xấu được ví như “cục máu đông” ngăn dòng chảy tín dụng vào nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế đang “khát” vốn như hiện nay, việc nhanh chóng đánh tan “cục máu đông” này là vô cùng cần thiết. Với kỳ vọng dựng nên một bức tranh toàn cảnh về thực trạng và nguyên nhân nợ xấu, từ đó đưa ra những giải pháp vừa mang tính căn cơ trước mắt vừa đảm bảo tính bền vững lâu dài dưới góc nhìn của các chuyên gia kinh tế, giúp bạn đọc hình dung một cách sâu rộng và toàn diện hơn các chiều kích của nó, Thời báo Ngân hàng xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc “xê –ri” bài về vấn đề này.
501899148f56e_medium.jpg

Nợ xấu đang là “cục máu đông” ngăn dòng chảy tín dụng vào nền kinh tế. (Ảnh: ĐK)
Từ góc nhìn cận cảnh
Có lẽ chưa bao giờ hai từ “nợ xấu” lại trở thành một trong những tâm điểm đàm luận của ngành Ngân hàng, các chuyên gia kinh tế và dư luận xã hội như hôm nay. Đã có bao nhiêu ví von, bao nhiêu cách gọi đặt tên cho nó và cũng đã có khá nhiều con số đưa ra khi nhìn nhận về vấn đề này. Từ con số 3,6% rồi 10% và gần đây, theo kết quả công bố mới nhất của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (NHNN), đến ngày 31/3/2012 nợ xấu của các TCTD là hơn 202 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ tín dụng. Trong khi đó, theo báo cáo của các TCTD đến 31/5/2012, nợ xấu của toàn hệ thống là hơn 117 nghìn tỷ đồng chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. Và mặc dù, quy định hiện hành của Việt Nam về phân loại nợ về cơ bản là phù hợp với nguyên tắc phân loại nợ của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, tuy nhiên, cách đánh giá của một số tổ chức quốc tế về nợ xấu của Việt Nam cũng có sự khác nhau. Chẳng hạn, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings cho rằng nợ xấu của các TCTD của Việt Nam là khoảng 13%.

Theo ông Nguyễn Hữu Nghĩa - Quyền Chánh thanh tra Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng, những con số mà các tổ chức quốc tế đưa ra dựa trên tiêu chí phân loại nợ riêng có hoặc trên kết quả đánh giá của một số ngân hàng được chọn mẫu hoặc ngoại suy có tính đến xếp loại tín nhiệm quốc gia. Trên thực tế, không có chuẩn mực quốc tế về phân loại nợ. Việc sử dụng các hệ thống tiêu chí phân loại nợ khác nhau sẽ cho kết quả nợ xấu không giống nhau. Điều đó có nghĩa việc so sánh dựa trên các tiêu chí phân loại nợ khác nhau không có nhiều ý nghĩa và có thể dẫn đến nhận định không hợp lý.

Tình trạng nhiều con số về nợ xấu không phải là vấn đề riêng có ở Việt Nam. Vì vậy các cơ quan quản lý, giám sát ngân hàng thường ban hành quy định khung về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) phù hợp với từng đặc điểm cụ thể của quốc gia mình. Và theo đó, ở Việt Nam, con số 8,6% nợ xấu mà NHNN vừa công bố có thể được xem là số liệu chính thức về nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng.

Bên cạnh đó, cũng theo lý giải của ông Nghĩa, nguyên nhân nợ xấu theo kết quả của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng cao hơn nợ xấu theo báo cáo của các TCTD tại thời điểm tháng 3/2012 là do các tiêu chí xác định nợ xấu theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, gồm có tiêu chí định tính và định lượng. Mặc dù những tiêu chí đó là phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng do khoản nợ rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của các TCTD khác nhau, việc sử dụng tiêu chí định tính trong phân loại nợ của các TCTD lại có sự khác nhau, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong xác định và ghi nhận nợ xấu. Chưa kể, một số TCTD không thực hiện đúng quy định về phân loại nợ, ghi nhận nợ xấu thấp hơn thực trạng và quy định để giảm chi phí trích lập DPRR. Phần khác, do thiếu thông tin về phân loại nợ của các TCTD, nên dẫn đến có sự khác nhau về nhóm nợ của một khách hàng quan hệ tại nhiều TCTD.

Mặc dù tỷ lệ nợ xấu của các TCTD của Việt Nam có chiều hướng tăng nhưng vẫn còn thấp hơn so với nhiều nước như Latvia: 17,5%, Ukraine: 14,7%... Hơn thế, đến cuối tháng 5/2012, các TCTD đã trích lập dự phòng rủi ro 67,3 nghìn tỷ đồng nhưng chưa sử dụng, chiếm 57,18% tổng nợ xấu. Đặc biệt, trong tổng nợ xấu của các TCTD có 84,16% được bảo đảm bằng tài sản với tổng giá trị tài sản bảo đảm bằng 134,8% tổng nợ xấu nên không quá lo về khối lượng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và dù ở mức 4,47% hay 8,6%, thì theo ông Nguyễn Hữu Nghĩa - tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam vẫn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu của một số nước trong khu vực vào thời điểm Chính phủ phải đứng ra xử lý nợ xấu. Cụ thể, tại Hàn Quốc là 17%, Thái Lan là 47,7%, thậm chí tại Indonesia vào thời điểm năm 1999 nợ xấu chiếm trên 50%.

Đi tìm nguyên nhân

Có thể nói, ngân hàng không phải là tác giả của các khoản nợ xấu. Bản chất của nợ xấu là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu quả, và nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Nợ xấu thường tăng nhanh khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng khoảng.

Nợ xấu hiện nay của các TCTD được tích lũy từ những năm trước đây do môi trường kinh doanh xấu đi kể từ năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu. Sau khi chống chọi với lạm phát cao, nền kinh tế lại đối mặt với việc suy giảm tốc độ tăng trưởng, làm cho khách hàng vay gặp nhiều khó khăn về tài chính và hoạt động. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động tăng nhanh. Tính đến ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh nghiệp giải thể (tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011). Nguyên nhân do năng lực tài chính mỏng, chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng, trong khi năng lực quản trị yếu nên khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hạn chế. Đó cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng tín dụng suy giảm đồng nghĩa với việc nợ xấu tăng cao hơn.

Trong bối cảnh dư nợ tín dụng tăng thấp từ đầu năm 2012 trở lại đây cho thấy, nợ xấu phát sinh mới chủ yếu là từ các khoản tín dụng đã được cấp trước đây, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng nhanh. Nhìn lại giai đoạn 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân trong giai đoạn này đạt 26,56%/năm, thì tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012, dư nợ tín dụng tăng âm nhưng nợ xấu vẫn tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.

Bên cạnh đó, những nguyên nhân chủ quan cũng có vai trò đáng kể trong việc gia tăng nợ xấu. Hầu hết các TCTD theo đuổi "thành tích" tăng trưởng tín dụng nhanh để khẳng định vị thế, trong khi năng lực quản trị rủi ro lại hạn chế, nhất là với các NHTMCP chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị. Rồi một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng của các ngân hàng tập trung vào các lĩnh vực tăng trưởng "nóng" như bất động sản, chứng khoán... Khi các lĩnh vực này bị "đóng băng" kéo theo tín dụng đóng băng và nợ xấu gia tăng. Ông Nguyễn Hữu Nghĩa cũng thừa nhận, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát huy hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD khiến dòng vốn ngân hàng bị "lệch lạc" và hệ quả của nó là nợ xấu gia tăng.
Theo NHNN chi nhánh TP. Hà Nội, tính đến cuối tháng 6/2012, nợ xấu trên địa bàn đã lên tới 5,12%. Còn theo báo cáo về tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, 6 tháng đầu năm 2012, nợ xấu của hệ thống ngân hàng chiếm 6,3% tổng dư nợ tín dụng. Khảo sát báo cáo tài chính riêng lẻ của 6 ngân hàng niêm yết trên cả hai sàn HSX, HNX, gồm Vietcombank, VietinBank, ACB, MB, Eximbank và Navibank cho thấy, tính đến 30/6, tổng dư nợ của 6 nhà băng đạt 753.725 tỷ đồng, tổng nợ xấu là 18.942 tỷ đồng, tương đương 2,51% tổng dư nợ. Trong số 6 ngân hàng niêm yết nêu trên, Navibank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất, với 3,86%, kế đến là Vietcombank (3,47%), VietinBank (2,45%), MB (1,82%), Eximbank (1,73%), ACB (1,53%).
Bài 2: Nợ xấu nhìn từ lăng kính khác
Thanh Huyền
 
Hóa giải bài toán nợ xấu (Bài 2)

Ông Sameer Goyal cho biết, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong giải quyết nợ xấu. Tùy mức độ nghiêm trọng của vấn đề và cấu trúc kinh tế và tài chính đang có, mà mỗi nước có cách thức tiếp cận và xử lý khác nhau.

Bài 2: Xử lý nợ xấu nhìn từ lăng kính khác


5019e8dd2c796_medium.jpg

Ông Sameer Goyal

Chia sẻ về kinh nghiệm quốc tế trong xử lý nợ xấu (XLNX), ông Sameer Goyal - Chuyên gia tài chính cao cấp, điều phối viên về tài chính và phát triển khu vực tư nhân ở Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam. Cho biết, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong giải quyết nợ xấu. Tùy mức độ nghiêm trọng của vấn đề và cấu trúc kinh tế và tài chính đang có, mà mỗi nước có cách thức tiếp cận và xử lý khác nhau. Khi nợ xấu không quá cao và lan rộng thì cách thường làm là khuyến khích các ngân hàng tự giải quyết ngay tại chính ngân hàng của mình.

Trong một số trường hợp, cũng có thể ngân hàng phải thu hồi tài sản thế chấp (TSTC) và chuyển các khoản tín dụng đó sang đơn vị quản lý tài sản của mình để khôi phục dư nợ số tiền vay.

Một số nước cũng thành lập ra các công ty quản lý tài sản (AMC) tư nhân độc lập để mua lại các tài sản xấu từ các tổ chức tài chính và tối đa hóa giá trị của các tài sản này thông qua việc tái cấu trúc chúng.

Tuy nhiên, khi có khủng hoảng tài chính hoặc nợ xấu ở mức cao và mang tính hệ thống thì các chính phủ cũng phải thành lập các AMC quốc gia. Kinh nghiệm cũng cho thấy, XLNX ở tầm quốc gia thường diễn ra cùng với quá trình tái cấu trúc ngân hàng và doanh nghiệp.

Việt Nam có thể rút ra những bài học gì từ những kinh nghiệm này?


Với việc Việt Nam đang đối mặt với nợ xấu tăng cao, điều quan trọng là Việt Nam cần rút ra được những bài học và kinh nghiệm từ các nước khác và đưa ra được một chiến lược và khuôn khổ phù hợp để giải quyết các vấn đề liên quan. Một trong những bước đi đầu tiên có thể tiến hành là đánh giá về phạm vi của nợ xấu hiện nay để từ đó có hướng tiếp cận và các giải pháp xử lý.

Vậy mấu chốt nhất để đảm bảo XLNX thành công là gì?


Các vấn đề nợ xấu có thể trở thành một lực cản đối với sự tăng trưởng kinh tế và hệ thống tài chính. Dù lựa chọn cách tiếp cận nào thì điều quan trọng nhất là cần đảm bảo việc xử lý phải được tiến hành nhanh và bảng cân đối của các ngân hàng được điều chỉnh hợp lý để các ngân hàng có thể tiếp tục hoạt động hiệu quả. Sự trì hoãn trong xử lý sẽ làm xói mòn dần giá trị của các tài sản và dẫn đến chi phí lớn hơn cho nền kinh tế.

Theo kinh nghiệm quốc tế, có nhiều trường hợp mà các chính phủ phải can thiệp trực tiếp để XLNX không?

Việc chính phủ can thiệp trực tiếp vào XLNX cũng thường được xem xét.

Rủi ro ở đây là gì và đâu là những vấn đề cần quan tâm?


Rủi ro có thể dẫn đến là chính phủ phải gánh chịu chi phí tài khóa. Bên cạnh đó, trong trường hợp bắt buộc Chính phủ phải can thiệp thì cần tránh gây méo mó thị trường và những tình huống rủi ro đạo đức. Vì vậy, XLNX cần đi cùng với sự minh bạch.

Theo tôi, vai trò của các chính phủ nên là thúc đẩy môi trường thuận lợi và đưa ra các khung khổ luật pháp, điều tiết và giám sát thích hợp cho vấn đề nợ xấu và XLNX. Đặc biệt, XLNX không nên xem là một hoạt động tĩnh. Cùng với giải quyết nợ xấu, các nhà điều tiết cần thắt chặt giám sát, đảm bảo phân loại tài sản thích hợp và trích lập dự phòng đúng tiêu chuẩn quốc tế. Kinh nghiệm cho thấy trong rất nhiều trường hợp, các hạn chế về luật pháp, điều tiết, thuế hay khung khổ pháp lý là những rào cản lớn khi tiến hành công tác này.

5019e8de2bf92_medium.jpg

Xử lý nợ xấu ở tầm quốc gia thường diễn ra cùng với quá trình tái cấu trúc ngân hàng và doanh nghiệp. (Ảnh: ĐK)

Nhìn nhận của ông về tình hình nợ xấu ở Việt Nam?


Ngành Ngân hàng Việt Nam đang có những dấu hiệu căng thẳng với sự sụt giảm trong cho vay trong bối cảnh nghi ngại về nợ xấu tăng cao. Một số ngân hàng cho biết họ đang tích cực trong quản lý danh mục nợ xấu của mình. Tuy nhiên như kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, nếu không có những động lực khuyến khích mạnh mẽ thì các ngân hàng dường như sẽ làm rất ít, thậm chí là dừng, hoãn lại vấn đề này vì vin vào bối cảnh kinh tế khó khăn. Tôi cho rằng, hiện Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được vấn đề nợ xấu gia tăng và đang tìm các cách thức để giải quyết vấn đề này, có thể trong đó gồm việc thành lập một AMC quốc gia.

Ý ông là Việt Nam nên thành lập một AMC quốc gia?

Một AMC quốc gia được thành lập hay không nên căn cứ vào tình hình trên toàn hệ thống cũng như việc phân tích các dữ liệu và xem xét lại danh mục của các ngân hàng để xác định xem phạm vi của vấn đề và bản chất của các tài sản đang suy giảm. Nếu đến mức phải thành lập một AMC quốc gia thì có một số vấn đề cần được lưu ý như: Nó có nên mở cho cả các ngân hàng nhà nước và tư nhân? Liệu AMC có bị hạn chế với những loại tài sản nhất định? Cách thức lựa chọn và quyết định giá tài sản sẽ được chuyển giao; Cần trao các quyền lực đặc biệt gì cho AMC này? Làm sao để AMC này tách biệt được khỏi các áp lực chính trị? Khung thời gian hoạt động nên kéo dài bao lâu?...

Thành lập AMC quốc gia có những mặt tích cực và hạn chế gì?


Hầu hết các AMC quốc gia được thiết kế đặc biệt để phù hợp với tình hình mỗi nước. Các AMC quốc gia thường có một số lợi thế: Cho phép các ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh chính của mình; giúp cho các nền kinh tế thực hiện việc XLNX với các nguồn lực và chuyên môn được tập trung vào một cơ quan; có thể cho phép chứng khoán hóa do có lượng tài sản lớn; phá bỏ các mối liên kết giữa các ngân hàng và khu vực doanh nghiệp/người vay và do đó có thể giúp cải thiện khả năng thu hồi các khoản vay; cho phép áp dụng các thông lệ XLNX thống nhất...

Nhưng cùng với đó, các AMC này cũng đặt ra các thách thức như: Các ngân hàng có các lợi thế thông tin hơn so với AMC quốc gia vì họ có quan hệ với những khách hàng vay; nếu các tài sản được chuyển sang AMC không được quản lý một cách tích cực thì sự tồn tại của AMC có thể dẫn đến sự xói mòn kỷ luật thanh toán và làm cho giá trị các tài sản này còn suy giảm nhiều hơn. Đồng thời, có thể cũng khó để ngăn cách một đơn vị công khỏi áp lực chính trị, nhất là khi nó phải mang trên mình một khối lượng lớn các tài sản của ngân hàng.

Vậy những lưu ý ở đây là gì?

Cần lưu ý là AMC quốc gia có thể giúp nhanh chóng làm sạch bảng cân đối kế toán của một ngân hàng nhưng để nợ xấu không quay trở lại thì các ngân hàng cần được giám sát chặt chẽ và các hệ thống quản lý rủi ro của họ phải được tăng cường. Thứ nữa, các tài sản chuyển giao cho AMC chỉ là bước đi đầu tiên trong tiến trình XLNX. Các tài sản này sau đó cần được các chuyên gia mổ xẻ kỹ lưỡng, trong khi các hạn chế và lỗ hổng trong các chính sách cần được loại bỏ. Ngoài ra, việc dành những quan tâm thích đáng cho khu vực doanh nghiệp và những cải thiện trong quản trị cũng là những yếu tố quan trọng để tăng hiệu quả của việc XLNX. Cùng với đó, năng lực của hệ thống luật pháp cũng có thể giúp tăng cường để thúc đẩy quá trình này.

Xin cảm ơn ông!

Đỗ Lê thực hiện
 
Hóa giải bài toán nợ xấu (Bài 3)

TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng NHTW nên thành lập Trung tâm xử lý nợ. Trung tâm này có nhiệm vụ giúp Thống đốc ban hành các quy chế, tổ chức đàm phán, định giá, đấu thầu… các khoản nợ. Toàn bộ tài sản mua lại của các NHTM sẽ giao cho một cơ quan khác, ví dụ như giao cho Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam quản lý...

Bài 3: Để nợ xấu không còn là nỗi ám ảnh
501b2bcb20f8d_medium.jpg

TS. Lê Xuân Nghĩa

Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, TS. Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết, trong bức tranh nợ xấu hiện nay có một điểm rất đáng lưu ý: Đó là mặc dù tín dụng những tháng đầu năm hầu như không tăng, nhưng nợ xấu vẫn tăng rất nhanh. Có nghĩa, nợ xấu phát sinh chủ yếu từ những khoản vay thời gian trước đây do sức khỏe của DN đang giảm sút nhanh chóng. Số lượng DN giải thể, phá sản không trả được nợ ngày càng nhiều lên, một phần cũng do các DN bị suy kiệt vốn, suy kiệt thanh khoản trong đó nợ xấu ngân hàng và chiếm dụng vốn lẫn nhau là một trong những nguyên nhân chính.

Sao chúng ta không để các ngân hàng tự xử lý nợ xấu, thưa ông?

Hiện nợ xấu vào khoảng 10% GDP. Với năng lực hiện nay của hệ thống NHTM, nếu để họ tự xử lý thì nhiều nhất, mỗi năm cũng chỉ xử lý được 1-2% nợ xấu. Có nghĩa, để xử lý hết số nợ xấu hiện nay nhanh nhất cũng phải mất 5-7 năm. Trong quãng thời gian này, dứt khoát các TCTD sẽ kiểm soát rất chặt, hạn chế tín dụng mới và chỉ tập trung xử lý nợ xấu; Còn nếu có thì các khoản tín dụng này cũng phải chịu một mức lãi suất cao do phải gánh thêm chi phí từ nợ xấu và chi phí xử lý nó. Điều đó rất nguy hiểm cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh sức khỏe của DN sụt giảm mạnh như hiện nay. Tín dụng đóng băng sẽ khiến DN càng suy yếu, kéo theo đó nợ xấu cũng sẽ tăng nhanh. Đến một lúc nào đó, phần lớn DN kiệt quệ và hệ quả là nền kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng trầm trọng.

Điều đó có nghĩa Chính phủ phải nhanh chóng vào cuộc để xử lý nợ xấu?

Đúng vậy. Nhật Bản những năm trước đây cũng đã phải trả một cái giá rất đắt là 16 năm liền kinh tế hầu như không tăng trưởng cũng bởi chần chừ, không nhanh chóng xử lý nợ xấu khiến tín dụng bị đóng băng kéo dài.

Vậy Chính phủ có thể “vào cuộc” bằng những biện pháp nào?


Theo kinh nghiệm trên thế giới, có 3 biện pháp cơ bản: Thứ nhất là Chính phủ “bơm” tiền trực tiếp cho các ngân hàng để giải quyết nợ xấu và cho vay mới; thứ hai là thành lập công ty mua bán nợ (AMC) quốc gia và thứ ba là quốc hữu hóa những ngân hàng yếu kém.

Cách thứ nhất theo tôi không ổn lắm, bởi cho dù Chính phủ có “bơm” tiền nhưng chưa chắc các ngân hàng đã đẩy tín dụng ra; hoặc giả nếu có đẩy ra cũng chỉ chọn những DN thực sự khỏe mạnh hoặc DN thân thiết với mình. Điều đó cũng không có lợi cho nền kinh tế. Quan trọng hơn là khối nợ xấu vẫn nằm nguyên đó, không được xử lý.

Còn cách thứ 3 cũng không được, do nợ xấu hiện nay không phải là của riêng ngân hàng nào mà là vấn đề chung của toàn hệ thống, kể cả ngân hàng quốc doanh. Vì thế, Nhà nước không thể quốc hữu hóa hết các ngân hàng có nợ xấu lớn được. Làm như thế còn tốn kém nhiều hơn so với việc bỏ tiền ra mua lại nợ xấu.

Vì vậy, xét trong bối cảnh hiện nay, theo tôi, cách thứ 2 - thành lập AMC quốc gia là khả dĩ nhất. Công ty này sẽ có nhiệm vụ mua nợ xấu từ NHTM chuyển về mình (giá mua sẽ tùy vào phân loại nợ) để trong một thời gian ngắn sẽ chuyển toàn bộ nợ xấu về AMC quốc gia. DN khi đó sẽ không còn nợ ngân hàng nữa mà họ sẽ nợ AMC.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nghiên cứu phối hợp và vận dụng tất cả các giải pháp trên, kể cả trong việc mua cũng như bán nợ.

Tuy nhiên, một trong những khó khăn hiện nay là việc định giá các khoản nợ. Vậy chúng ta xử lý như thế nào trong bối cảnh thị trường mua bán nợ ở Việt Nam chưa phát triển?

Theo tôi, đầu tiên cần phải xác định xử lý nợ là nhiệm vụ cấp bách. Khi đã xác định như vậy, sẽ có 2 cách để định giá các khoản nợ xấu. Cách thứ nhất, như Trung Quốc đã từng làm, là Chính phủ định giá trên cơ sở mức độ rủi ro của khoản nợ và bắt buộc các NHTM phải bán lại cho Chính phủ các khoản nợ đó. Ví dụ, nợ thuộc nhóm 4 thì sẽ định giá mua ở mức này; nhóm 5 sẽ ở mức kia. Mặc dù các khoản nợ có thể có những tài sản đảm bảo khác nhau, nên việc bị quy về cùng một mức giá sẽ gây thiệt thòi cho các NHTM. Tuy nhiên, để phát sinh nợ xấu một phần cũng do lỗi của các NHTM nên họ phải chịu thiệt thòi. Hơn thế, chỉ có như vậy mới có thể xử lý nhanh “cục máu đông” nợ xấu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, sở dĩ Trung Quốc làm được như vậy vì phần lớn ngân hàng tại Trung Quốc lúc đó là ngân hàng quốc doanh và DN thì cũng là DNNN.

Cách thứ 2 là thỏa thuận có điều kiện, thời hạn.
Tức là Chính phủ sẽ cho phép các ngân hàng thỏa thuận với AMC về giá của một món nợ trong một khoảng thời gian nào đấy, ví dụ từ 7-10 ngày. Nếu vượt quá thời hạn ấy mà không thống nhất được với nhau thì NHTW hoặc Chính phủ sẽ quyết định và các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Đây là cách khá phổ biến mà nhiều nước đã áp dụng.

501b2bcc1b23f_medium.jpg

Nợ xấu tăng cao do “sức khỏe” của DN suy giảm. (Ảnh: ĐK)

Xét bối cảnh hiện nay của Việt Nam, chúng ta chỉ có thể đi theo cách thứ 2?


Đúng vậy, vì hiện ở Việt Nam, số lượng các ngân hàng tư nhân đã nhiều. Tuy nhiên, có thể nghiên cứu để áp dụng linh hoạt cả cách 1 cho khu vực NHTM Nhà nước và DNNN.

Ngoài ra, trong một số trường hợp có thể cho phép các ngân hàng xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro (DPRR) với các khoản nợ xét thấy không thể thu hồi được vì các lý do khách quan bất khả kháng (như DN đó đã phá sản rồi) hay với bà con nông dân, đối tượng chính sách vay vốn cho sản xuất nhưng bị các thiên tai, dịch bệnh khách quan. Tuy nhiên, để tránh rủi ro về mặt đạo đức, cần phải có những quy định rõ ràng và sự chỉ đạo, giám sát thực hiện chặt chẽ. Kinh nghiệm trước đây cũng cho thấy, nên thành lập một hội đồng thẩm định giá, giám sát với sự tham gia của nhiều bộ, ngành có liên quan.

Sau khi mua về rồi thì AMC sẽ giải quyết thế nào với “đống nợ” này, thưa ông?

Hiện có 4 biện pháp chính. Thứ nhất là biến nợ đó trở thành vốn góp (Debt – Equity Swap). Theo cách này, AMC sẽ lựa chọn những DN có khả năng tồn tại và phát triển tốt để biến nợ xấu hiện tại trở thành vốn góp của AMC tại DN này. Tất nhiên, AMC sẽ đưa ra khung thời gian “thoái vốn” khỏi DN đó, bắt DN phải mua lại phần vốn này khi tình hình hoạt động đã ổn định trở lại. Với cách này thì AMC thực sự sẽ tham gia vào quá trình quản lý, tái cấu trúc các DN, giúp DN phục hồi và phát triển mạnh lên.

Cách thứ 2 là đấu giá công khai. AMC có thể là bán ra từng gói nợ xấu hoặc bán lẻ từng món nợ. Đối tượng tham gia mua có thể là các NĐT trong nước và nước ngoài. Ở các nước thì NĐT nước ngoài chiếm vai trò rất quan trọng, nhưng ở Việt Nam hiện nay còn vướng những vấn đề về pháp lý trong việc sở hữu tài sản, đặc biệt là BĐS.

Cách thứ 3 là chứng khoán hóa các khoản nợ ấy
, tức là gom nợ thành từng gói và phát hành trái phiếu, bán ra thị trường. Cách làm này có ưu điểm là nhanh, gọn nhưng đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển như của Mỹ, châu Âu. Vì vậy, cách làm này chưa thực tế lắm ở Việt Nam hoặc có thể chỉ áp dụng được trong một vài trường hợp như đối với những công ty đã niêm yết.

Cách thứ 4 là xóa nợ với những đối tượng như trên đã đề cập. Trong trường hợp này thì AMC phải “chịu thiệt”.

Vậy theo ông, chúng ta cần phải làm gì để thu hút được nguồn lực nước ngoài vào quá trình xử lý nợ?


Theo tôi được biết, hiện nhiều NĐT nước ngoài cũng rất hiểu quy định của Việt Nam nên họ muốn, thay vì sở hữu có thể cho họ thuê với thời hạn 50 năm. Điều này thì Luật cho phép, song hiện thủ tục cũng rất rườm rà. Vì vậy, có thể trao cho AMC một “quyền lực đặc biệt” là sau khi ký chuyển nhượng tài sản cho các NĐT nước ngoài dưới hình thức thuê có thời hạn, thì các cơ quan ban, ngành, địa phương khác cứ thế “chuẩn y”. Chỉ có như vậy mới có thể thu hút được các NĐT nước ngoài.

Nhưng khi mà một nền tảng pháp lý, đội ngũ tổ chức… cho một AMC như vậy cần nhiều thời gian để triển khai thì ông có đề xuất nào khác?

Thực ra các nước cũng không phải “đùng một cái” là thành lập AMC được. Họ thường lấy một tổ chức nào đó có sẵn rồi thêm chức năng nhiệm vụ cho nó. Ví dụ Hàn Quốc lấy quỹ con của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc để làm. KAMCO của Hàn Quốc bây giờ có nguồn gốc từ đó.

Nên tôi cho rằng NHTW nên thành lập Trung tâm xử lý nợ. Trung tâm này có nhiệm vụ giúp Thống đốc ban hành các quy chế, tổ chức đàm phán, định giá, đấu thầu… các khoản nợ. Toàn bộ tài sản mua lại của các NHTM sẽ giao cho một cơ quan khác, ví dụ như giao cho Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam quản lý. Cơ quan này có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản, thống kê, hạch toán và thực hiện mua, bán theo lệnh của NHNN. Cơ quan này cũng có thể sẽ tham gia trực tiếp vào việc tái cơ cấu lại các DN. Làm như vậy thì sẽ nhanh hơn.

Việc thành lập Trung tâm như vậy có gì ưu việt so với AMC?


Cái ưu việt ở đây là nó sẽ linh hoạt và bớt nặng nề hơn so với một AMC. Do AMC là một DN, dù là đặc biệt, song động lực thực hiện là không lớn. Vì vậy, thời gian xử lý nợ có thể kéo dài. Còn với Trung tâm xử lý nợ, nó gắn với trách nhiệm của một cơ quan quản lý nhà nước nên hiệu lực, hiệu quả sẽ cao hơn.

Nhưng nguồn vốn để AMC hoặc Trung tâm này hoạt động vào khoảng bao nhiêu và từ nguồn nào, thưa ông?


NHNN có thể phát hành trái phiếu. Về con số cụ thể. Hiện theo công bố của NHNN, nợ xấu vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, trong đó cứ cho là một nửa (100 nghìn tỷ) là nợ nhóm 4, nhóm 5. Hiện các NHTM đã có khoảng 67 nghìn tỷ DPRR nhưng tất nhiên là họ không thể sử dụng toàn bộ số DPRR đó được mà giả định họ có thể sử dụng một nửa số đó (tức khoảng 30 - 40 nghìn tỷ đồng). Như vậy thì sẽ cần thêm khoảng 60 - 70 nghìn tỷ đồng nữa là có thể xử lý được.

Gút lại thì đó cũng chỉ là giải pháp để xử lý nợ xấu hiện tại. Còn về lâu dài, câu chuyện này cần được hóa giải thế nào?

Hiện lộ trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD đã bắt đầu khởi động. Đây là một quá trình lâu dài và gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là củng cố thanh khoản thì đã hòm hòm. Giai đoạn 2 là lành mạnh tài chính (tức là xử lý nợ xấu) và giai đoạn 3 là tái cấu trúc tổ chức và hoạt động. Trong đó, giai đoạn 2 là quan trọng và cốt lõi nhất vì liên quan mật thiết đến sự sống còn của nền kinh tế hiện nay.

Với giai đoạn 3, sau khi quy định, quy chuẩn về hoạt động được chỉnh sửa, các ngân hàng được tái cấu trúc tổ chức và hoạt động theo chuẩn mực quốc tế, công tác quản trị DN và quản trị rủi ro sẽ được chấn chỉnh. Bên cạnh đó năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, đặc biệt trong vấn đề giám sát từ xa và cảnh báo sớm cũng sẽ được nâng cao thì sẽ hạn chế được nhiều rủi ro nợ xấu phát sinh.

Xin cảm ơn ông!
-----------------

TS. Nguyễn Trí Hiếu – Chuyên gia tài chính ngân hàng


Nợ xấu phải được khoanh ngay lại và giải quyết ở tầm quốc gia

Con số nợ xấu theo công bố của Cơ quan thanh tra giám sát NHNN (8,6%) là vào cuối tháng 3 vừa qua. Với tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh như vậy thì đối với các ngân hàng, trước hết họ phải trích lập dự phòng cho đúng chuẩn. Nhưng đồng thời, họ sẽ không thể hạ chuẩn trong việc cấp tín dụng cho các ngành kinh tế được mà bắt buộc phải giữ những chuẩn này, không để nợ xấu cao hơn nữa. Điều này các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các DN cần thấu hiểu và thông cảm.

Cách giải quyết ngay bây giờ là nợ xấu phải được khoanh ngay lại và được giải quyết trên tầm mức quốc gia. Vì vậy, tôi rất ủng hộ đề xuất phải thành lập một AMC quốc gia để giúp xử lý vấn đề này. Công ty này sẽ đàm phán với các ngân hàng, mua lại nợ xấu để đưa “cục máu đông” đó ra khỏi hệ thống ngân hàng, giúp ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh. Đó là giải pháp cho nợ đang tồn đọng trên sổ sách của các ngân hàng.

Còn để giảm thiểu nợ xấu ngân hàng trong tương lai, dần đưa nợ xấu xuống được mức 1-2% (theo thông lệ quốc tế) thì dĩ nhiên hệ thống ngân hàng cần cải tổ lại. Đây là điều chúng ta đang làm. Trong đó, một trong những vấn đề rất quan trọng là công tác quản lý rủi ro phải được thực hiện nghiêm, đặc biệt là quản trị công ty để hội đồng quản trị làm việc đúng chức năng. Đấy là cách duy nhất để kiểm soát được nợ xấu, ngăn không cho nợ xấu tăng cao như đã từng diễn ra.

TS. Cao Sỹ Kiêm – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ quốc gia

Khi kinh tế phát triển bền vững thì rủi ro nợ xấu cũng sẽ giảm


Về dài hạn, chúng ta đang có cơ hội để thực hiện giảm nợ xấu trên cơ sở của Đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế với 3 trụ cột: tái cơ cấu thị trường tài chính (trong đó có tái cơ cấu hệ thống các TCTD), tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu DNNN.

Bên cạnh việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thì việc sắp xếp lại các DN cũng là vấn đề cần xúc tiến nhanh. Nếu DN yếu kém cũng sẽ tiềm ẩn rủi ro lớn cho hoạt động ngân hàng. Bởi vậy, cần loại những DN này ra khỏi thị trường. Trong quá trình sắp xếp lại hệ thống ngân hàng và DN, sẽ biết DN nào có nguy cơ làm cho ngân hàng mất vốn, DN nào còn tài sản, từ đó, mà đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp. Hơn nữa, kinh doanh thị trường là lời ăn, lỗ chịu. Do đó, bản thân DN cũng phải chia sẻ trong việc xử lý nợ xấu. Bên cạnh đó, ngoài các giải pháp nghiệp vụ cũng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu, công khai minh bạch, để dân hiểu và đồng thuận với việc xử lý nợ xấu, khi đó mới giải quyết nhanh được nợ xấu, mới ổn định được hoạt động ngân hàng.

Nếu giải quyết nghiêm túc, có kết quả những giải pháp trên thì đến năm 2015, bức tranh nợ xấu của ngân hàng sẽ được cải thiện cơ bản. Nhưng cũng phải xác định xử lý nợ xấu là hoạt động thường xuyên của ngân hàng. Chỉ cần qua một trận thiên tai là nợ xấu xuất hiện ngay. Vấn đề là khống chế, kiểm soát nó ở mức độ nào và tìm ra được các biện pháp xử lý phù hợp với thực tiễn ra sao, chứ khó mà có thể triệt tiêu được hoàn toàn trong hoạt động ngân hàng. Và một khi nền kinh tế phát triển bền vững thì đương nhiên vấn đề nợ xấu cũng sẽ nhẹ đi, bởi sức khỏe ngân hàng phụ thuộc nhiều vào sức khỏe nền kinh tế.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Tổng giám đốc NHTMCP Phương Đông (OCB)

Xử lý nợ xấu cũng cần phải có nghệ thuật


Đặt trong bối cảnh kinh tế, thị trường toàn cầu khủng hoảng, DN làm ăn khó khăn, thì nợ xấu tăng cao là chuyện hoàn toàn bình thường, không có gì quá đáng ngạc nhiên. Nhưng nếu không kiểm soát được mà cứ tiếp tục để nó tăng cao thì sẽ trở thành mối nguy hại lớn. Tuy nhiên, để có thể giải quyết được nợ xấu cần có thời gian và quan trọng hơn là có sự phối hợp hài hòa đồng bộ những giải pháp cả về phía DN, ngân hàng và chính sách. Theo tôi nên có biện pháp xử lý dần dần theo một lộ trình hợp lý chứ không thể giải quyết ngay lập tức vừa không khả thi mà có thể gây sốc cho hệ thống.

Về phía các NHTM, cần chủ động có phương án xử lý nợ theo "khung" Quyết định 780 như: tạm thời khoanh nợ, tạo điều kiện cấp tín dụng mới nhằm tạo dòng tiền cho DN trả dần cho ngân hàng; tăng cường hoạt động công ty mua bán nợ qua việc mua lại tài sản gán nợ cho DN. Riêng với OCB, bên cạnh việc sử dụng tất cả các biện pháp có thể trên thị trường hiện nay để xử lý nợ xấu, thì OCB luôn coi trọng và đặt công tác kiểm soát, quản lý nợ xấu lên vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh doanh. Cùng với đó, tổ chức lại đội ngũ xử lý nợ xấu theo phương thức cấu trúc tập trung nhằm kiểm soát tốt tình hình, đồng thời, bổ sung những cán bộ chuyên nghiệp về xử lý nợ xấu. Bởi xử lý nợ xấu không chỉ cần có nghiệp vụ chuyên môn tốt mà cần có cả nghệ thuật và am hiểu luật pháp.

Đỗ Lê thực hiện
 

Tin tuyển dụng mới nhất

Thống kê MXH

Tổng số chủ đề
34,577
Số bình luận
528,086
Tổng số thành viên
351,488
Thành viên mới nhất
nhacai2q
Back
Bên trên