14 ngân hàng được mua bán nợ

  • Bắt đầu Bắt đầu Black
  • Ngày bắt đầu Ngày bắt đầu

Black

Verified Banker
16/5/2012
[h=1]14 ngân hàng được mua bán nợ[/h]

(Cafe24h)- NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng này xem xét cho vay với các dự án lớn có hiệu quả


Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có văn bản số 2871/NHNN-TD yêu cầu Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và 13 Ngân hàng thương mại cổ phần gồm: Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công thương Việt Nam, Ngoại thương Việt Nam, Á Châu, Xuất nhập khẩu, Sài Gòn thương tín, Kỹ thương, Quân đội, Hàng Hải, Việt Nam Thịnh vượng, Quốc tế, Đông Nam Á, Sài Gòn - Hà Nội thực hiện các nội dung tháo gỡ khó khăn trong hoạt động tín dụng.


Cụ thể, khi xem xét cho vay các dự án lớn có hiệu quả, trường hợp nhu cầu vốn vay của khách hàng vượt các hạn chế tín dụng, các ngân hàng thương mại trên thực hiện việc xem xét, cấp tín dụng hợp vốn theo quy định tại Thông tư số 42/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của NHNN quy định việc cấp tín dụng hợp vốn của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.


Trường hợp tổ chức tín dụng đầu mối cấp tín dụng hợp vốn chưa tập hợp đủ các tổ chức tín dụng thành viên tham gia hợp vốn (nếu có), tổ chức tín dụng đầu mối tổng hợp báo cáo NHNN để thông tin, khuyến nghị các tổ chức tín dụng khác tham gia hợp vốn.

Các ngân hàng thương mại trên chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp xử lý nợ theo các quy định hiện hành; Thực hiện mua, bán nợ theo quy định tại Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/02/2006 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế mua, bán nợ của tổ chức tín dụng.

Nếu tổ chức tín dụng có nhu cầu chào mua, bán các khoản nợ nhưng chưa tìm được bên bán nợ/bên mua nợ thì tổ chức tín dụng tổng hợp báo cáo NHNN để tổng hợp chung. Trong báo cáo cần nêu cụ thể giá trị khoản nợ, tình trạng khoản nợ (nội bảng, ngoại bảng), các quyền gắn liền với các đảm bảo cho khoản nợ…

Mặt khác, các tổ chức tín dụng nghiên cứu, báo cáo cụ thể các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện xử lý nợ theo quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của Thống đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Đồng thời, đề xuất, kiến nghị các biện pháp xử lý, sửa đổi phù hợp.

Các ngân hàng thương mại trên tổng hợp báo cáo NHNN (Vụ Tín dụng) trước ngày 25/5/2012.
---------------------------------
[h=3]Cho phép ngân hàng mua bán nợ: Mũi tên nhắm nhiều đích[/h]
Ngày 22/05/2012
Những khoản nợ lớn, chồng chất và đan chéo giữa tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, giữa tổ chức tín dụng với nhau, được coi là vấn đề lớn nhất hiện nay của nền kinh tế sẽ được giải quyết từng bước khi Ngân hàng Nhà nước cho phép tổ chức tín dụng mua bán nợ lẫn nhau.

Nhưng, nợ mới sẽ được tính và phân loại theo nhóm nào khi món vay cũ đang là nợ xấu?

Thêm nghiệp vụ cho ngân hàng

Ngày 16/5, Ngân hàng Nhà nước ban hành văn bản số 2871/NHNN-TD cho phép 14 ngân hàng thương mại lớn nhất hệ thống thực hiện mua bán nợ, theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/2/2006. Điểm mấu chốt là Ngân hàng Nhà nước cho phép 14 ngân hàng này mua bán nợ dưới dạng cho doanh nghiệp vay và nợ của các tổ chức tín dụng vay lẫn nhau.

Trước khi Ngân hàng Nhà nước ban hành văn bản này, việc xử lý nợ trong nền kinh tế hiện nay được coi là vấn đề nóng bỏng nhất. Theo phân tích của ông Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia thì điều cốt yếu nhất hiện nay trong điều hành của Chính phủ là làm thế nào để xử lý được nợ xấu của doanh nghiệp.

Thậm chí, Chính phủ nên bỏ ra vài tỷ USD mua lại các khoản nợ xấu của doanh nghiệp, làm lành mạnh hóa bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp nhằm khơi thông dòng tín dụng từ hệ thống ngân hàng.

Trở lại với văn bản 2871, tổng giám đốc một ngân hàng thương mại nôm na: một doanh nghiệp A vay ngân hàng B 10 tỷ đồng xây dựng nhà máy nhưng vì không trả được nợ nên ngân hàng B có thể đàm phán bán lại khoản nợ này cho ngân hàng C và C sẽ thay B thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với khoản nợ của A.

“Đây là giải pháp làm lành mạnh hóa các khoản nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đồn thời chia sẻ gánh nặng với Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC)”, ông này nói.

Theo ông, vấn đề mua bán nợ giữa các tổ chức tín dụng đã được quy định trong quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng số 59/2006/QĐ-NHNN, ngày 21/12/2006 nhưng 6 năm nay, hoạt động trên không được liên kết giữa các tổ chức tín dụng với nhau.

Đúng ra, việc mua bán nợ trong hệ thống chỉ dừng ở mức độ các ngân hàng thương mại thành lập “công ty quản lý nợ và khai thác tài sản” với mục đích chủ yếu để xử lý nợ nội bộ ngân hàng mình và khai thác tài sản có liên quan đến tín dụng của ngân hàng.

Vì thế, mỗi khi nhắc đến mua bán nợ trong nền kinh tế, nhiều người hay đề cập đến hoạt động của DATC, dù phần lớn nghiệp vụ trên, DATC chỉ tập trung vào các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước.

Ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Eximbank phân tích, khi triển khai chủ trương này, ngân hàng bán nợ thu được tiền và thoát khỏi vùng ách tắc vốn; còn với ngân hàng mua nợ, dĩ nhiên họ bỏ ra một khoản tiền chịu thiệt trước mắt nhưng nhờ tiềm lực mạnh hơn, họ sẽ hưởng lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai.

Cùng đó, những doanh nghiệp đang là con nợ bị đem bán, họ không bị thúc bách trả nợ ngay như từng với chủ cũ mà được hưởng cơ chế mới của chủ nợ mới. Kể cả khi kết quả đàm phán mua nợ giữa bên bán và bên mua như thế nào thì tựu trung, cơ chế của chủ nợ mới đem lại hy vọng bớt bi đát hơn.

Ngoài ra, việc mua bán nợ nói trên cũng được áp dụng với các khoản nợ lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng. Ví dụ, ngân hàng A vay ngân hàng B 500 tỷ đồng nhưng C lại vay A 500 tỷ đồng. Bình thường, A sẽ đòi nợ C để trả cho B nhưng vì, C đang gặp khó khăn nên A có thể bán lại khoản nợ đó cho B. Như thế, chuyện nợ nần giữa A và B được giải quyết, sổ sách tài chính của họ sẽ lành mạnh hơn và B sẽ thành chủ nợ mới của C.

Ai được hưởng lợi?

Một câu hỏi đặt ra: việc mua bán nợ trong hệ thống tổ chức tín dụng được đề cập tại Quyết định 59 ban hành từ 2006 nhưng tại sao bây giờ mới đặt vấn đề ở mức nghiêm túc hơn?

Để trả lời câu hỏi này thì không thể không đề cập tới một thực tế là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và của doanh nghiệp, hay nói cách khác là nợ xấu trong nền kinh tế đang ở mức đáng lo ngại. Và tình trạng trên càng trầm trọng khi con số doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động tăng thêm mỗi ngày.

Trong khi đó, 14 “địa chủ” nói trên lại đang dư dả tiền. Trong tình thế “đốt đuốc tìm doanh nghiệp tốt”, lãi suất thị trường 2 quá rẻ, chỉ ở mức 9% - 10%/năm với kỳ hạn 1 - 3 tháng, họ đã mua trái phiếu Chính phủ, mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Đến nỗi Ngân hàng Nhà nước phải hãm lại các phiên giao dịch tín phiếu từ 4 - 5 phiên/tuần còn 1 - 2 phiên/tuần. Ở một bình diện nào đó, đây còn được coi là một trong những lối thoát cho kênh vốn này.

Nhưng, nếu nhìn sâu bên trong, sẽ thấy các “đại gia” đang thu về nhiều món hời như thể “địa chủ mua lúa non” ngày xưa, bởi tình cảnh không thể khác.

Chẳng hạn, trong mấy năm qua, không ít ngân hàng thương mại cho vay rất nhiều đối với dự án bất động sản. Do thị trường bất động sản đình trệ nên họ bị ngâm vốn vào đó và mất thanh khoản, buộc ngân hàng trung ương phải gia tăng tái cấp vốn. Nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàng trung ương vốn dĩ là nơi thực hiện chức năng hỗ trợ thanh khoản đối với các tổ chức tín dụng đầu tư cho sản xuất nhưng cực chẳng đã, nhà điều hành đã phải nhận cầm cố cả những hồ sơ tín dụng để tái cấp vốn cho những ngân hàng thương mại mất thanh khoản vì bất động sản.

Nay, Ngân hàng Nhà nước cho phép 14 ngân hàng được mua bán nợ với hầu hết khoản nợ như nói trên, xét về bản chất, đang “xã hội hóa” hoạt động mua bán nợ, điều mà Ngân hàng Nhà nước từng làm khi tái cấu trúc Habubank với khoản nợ tới 4.060 tỷ đồng mà có vẻ không tốn một xu.

Đã chấp nhận thị trường thì phải chấp nhận luật chơi “nguy cơ của người này lại là cơ hội của người khác”. Trong số các món nợ sắp bị đem bán, có rất nhiều dự án tốt, được ví như “ruộng lúa non tơ” nhưng chủ của nó lại đang kẹt tiền. Và lúc này là thời của thâu tóm hay nói theo ngôn từ có phần nặng nề và ác ý là “kền kền rỉa xác chết” như hoạt động của các tổ chức tài chính “quỹ kền kền” trên thế giới, chuyên mua lại các chứng khoán, cổ phần của các công ty đang lâm vào tình trạng cùng quẫn. Đó là cái giá phải trả cho những ngân hàng, doanh nghiệp đặt lợi nhuận lên trên quản trị rủi ro.

Nhưng, như hai mặt của một đồng xu. Ở đây, có một vướng mắc không thể không nhắc tới là khi chủ nợ mới cơ cấu lại khoản nợ cũ, tiếp tục cho vay thì khoản nợ mới được phân loại vào nhóm nợ nào? Theo quy chế phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro hiện nay, tất cả các khoản nợ mới nối tiếp khoản nợ cũ thì phải phân loại theo nhóm nợ cũ.

Ví dụ, nợ cũ bị xếp vào nhóm 4 thì nợ sau không thể phân loại vào nhóm 1 và 2. Và như vậy, trích lập dự phòng của tổ chức tín dụng phải cao thêm, đương nhiên lãi vay phải tăng tương ứng. Do đó, áp lực tài chính nặng thêm cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Đây là điều mà Ngân hàng Nhà nước không thể không tính đến.



Nguyễn Hoài - VnEconomy
-------------------
[h=1]“Việt Nam nên lập ngân hàng mua bán nợ xấu”[/h]
[h=6]7:24 PM Thứ tư, ngày 29 tháng hai năm 2012- Chuyên mụcTin tức|Sự kiện hàng ngày |[/h]

Theo Viện nghiên cứu McKinsey, bên cạnh việc tăng cường hoạt động kiểm toán thì Việt Nam nên cân nhắc thành lập một ngân hàng thuộc nhà nước có chức năng mua bán nợ xấu để quản lý, xử lý các tài sản có vấn đề.

McKinsey ghi nhận, cho đến nay ngành ngân hàng Việt Nam vẫn tỏ ra kiên cường trước những điều kiện hết sức khắc nghiệt của thị trường toàn cầu, đồng thời dường như cũng đã kiểm soát được các vấn đề.
Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (McKinsey Global) vừa công bố báo cáo tháng 2 về Việt Nam.
Trong báo cáo lần này, McKinsey đã chỉ ra ba rủi ro mang tính hệ thống trong dài hạn mà Việt Nam đang phải đối mặt, đặc biệt là trong bối cảnh môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn như hiện nay.
Nợ xấu
Rủi ro mang tính hệ thống đầu tiên mà tổ chức này nhắc tới là mức độ nợ xấu. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước được Sài gòn Tiếp thị cung cấp mới đây, nợ xấu toàn hệ thống trong năm 2011 chiếm 3,3% tổng dư nợ.
Tuy nhiên, McKinsey cũng dẫn nhận định của Ngân hàng Thế giới và nhiều nhà phân tích cho rằng, nếu các quy định hiện hành về nợ xấu của Việt Nam được nâng cấp ngang bằng với những chuẩn mực quốc tế và được thực thi một cách hiệu quả, thì tỷ lệ này trên thực tế sẽ cao hơn rất nhiều.
Tỷ lệ nợ xấu song hành cùng với tình trạng tín dụng ngân hàng tăng nhanh. Tổng dư nợ ngân hàng đã tăng chóng mặt với tốc độ 33%/năm trong vòng một thập kỷ qua, cũng là mức tăng cao nhất trong các nước ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ. Tính đến cuối năm 2010, giá trị tổng dư nợ đã đạt xấp xỉ 120% GDP, so với con số 22% khá khiêm tốn vào năm 2000.
Nợ xấu phình ra theo tăng trưởng tín dụng có thể đặt nền kinh tế vào tình trạng nguy hiểm. Đây là bài học mà Trung Quốc đã phải trải qua vào giữa năm 2000, Hàn Quốc trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, hay Mỹ và Anh trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mới đây.

Phân tích về nguyên nhân, bản báo cáo đề cập đến thực tế là các ngân hàng quốc doanh đang chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống ngân hàng và một vài ngân hàng trong số này vẫn tiến hành cho vay chính sách thay vì cho vay thương mại thuần túy. Tình trạng sở hữu chéo vẫn diễn ra phổ biến, gây suy giảm năng lực quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sự tồn tại của khá nhiều các ngân hàng có quy mô nhỏ cũng góp vào dẫn đến rủi ro này.
Trước thực trạng đó, McKinsey đưa ra khuyến nghị rằng, Việt Nam cần áp dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn để phân loại nợ xấu, tiếp tục cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh, thực thi các quy định về sở hữu chéo và những quy định về giao dịch giữa các bên liên quan.
Tổ chức này cũng lưu ý rằng,“sức khỏe” của các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn cần được quan tâm nhiều hơn bởi với quy mô tổng tài sản và nguồn vốn quá lớn thì ảnh hưởng của các ngân hàng này lên toàn hệ thống là rất đáng kể.
Đồng thời, “việc tăng cường hoạt động kiểm toán độc lập, có thể thành lập một ngân hàng của nhà nước với chức năng mua bán nợ xấu để quản lý và xử lý các tài sản có vấn đề cũng là một số bước đi khác mà Việt Nam nên cân nhắc” – McKinsey đề xuất.
Cuối cùng, theo McKinsey, Việt Nam cần áp dụng quy định về vốn tối thiểu để thúc đẩy sự hợp nhất các ngân hàng quy mô nhỏ có vị trí không quan trọng.
Thanh khoản
Rủi ro có tính hệ thống thứ hai mà báo cáo lần này của McKinsey nhắc đến là là nguy cơ xuất hiện một cuộc khủng hoảng thanh khoản.
Báo cáo phân tích, thị trường huy động vốn của Việt Nam lệch hẳn sang tín dụng ngắn hạn là do người gửi tiền coi tài khoản tiết kiệm như một hình thức đầu tư tiền trong ngắn hạn. Sản phẩm tiền gửi với các kỳ hạn một tháng, thậm chí dưới một tháng, là sản phẩm được ưa chuộng và phổ biến nhất tại Việt Nam.
Ngoại hối
Rủi ro có tính hệ thống thứ ba là trạng thái ngoại hối. Trạng thái này được thể hiện qua mức độ ổn định của dự trữ ngoại tệ quốc gia. Trong năm 2010, dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 12,4 tỷ USD, tương đương 39% tổng giá trị nợ nước ngoài của Việt Nam, giảm so với mức trên 100% năm 2007.
Thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam tiếp tục nới rộng bất chấp việc tiền đồng nhiều lần bị phá giá. Cùng với sự tháo chạy của nhà đầu tư sang USD và vàng, các nhân tố này đã góp phần làm cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ của Việt Nam.
Theo nhận định của McKinsey, ngoài các biện pháp bao quát nhằm khích lệ niềm tin của nhà đầu tư, Việt Nam cần thiết lập được một sự cân đối hợp lý trong chính sách tỷ giá hối đoái để vừa duy trì được năng lực cạnh tranh dựa trên yếu tố chi phí trong bối cảnh lạm phát cao, đồng thời đảm bảo rằng nguồn dự trữ ngoại tệ tiềm năng được thu hút trở lại khu vực kinh tế chính thức, từ đó được đầu tư một cách hiệu quả.
Như vậy, với những nhân tố kể trên kết hợp lại đã làm xuất hiện hàng loạt thời kỳ khi mà nguồn vốn trở nên khan hiếm và vô cùng đắt đỏ.
Tuy nhiên, nhìn ở khía cạnh tích cực, McKinsey cũng ghi nhận, cho đến nay ngành ngân hàng Việt Nam vẫn tỏ ra kiên cường trước những điều kiện hết sức khắc nghiệt của thị trường toàn cầu, đồng thời dường như cũng đã kiểm soát được các vấn đề.
Nếu các biện pháp siết chặt như hiện nay có thể tạo ra một cú hích để phát động quá trình hợp nhất các ngân hàng nhỏ và tạo nên chất xúc tác cho sự ra đời của các sản phẩm đầu tư thực sự như các quỹ tương hỗ mở, thì điều này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế.
Cũng theo McKinsey, việc giải quyết gốc rễ vấn đề phải đi từ cải thiện năng lực quản trị và tính minh bạch. Theo đó, các chuẩn mực báo cáo tài chính và nghiệp vụ quản trị rủi ro mà các ngân hàng Việt Nam đang áp dụng vẫn còn cách xa những chuẩn mực của các Hiệp định Basel II hay Basel III. Một biện pháp hữu ích mà Việt Nam có thể làm là tiến hành các trắc nghiệm về sức đề kháng của các ngân hàng để nhận diện những ngân hàng đang phải xoay sở chật vật, từ đó khu biệt ra khỏi nhóm những ngân hàng đang hoạt động tốt và có thể được coi là “an toàn” – theo MacKinsey.
Bích Diệp
 
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Gửi mình xin cái văn bản 2871/NHNN-TD được không? Cái đó tìm lòi mắt mà chẳng được...:-B
 
Back
Bên trên