Ủy quyền được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Chính vì ủy quyền là sự thỏa thuận nên khi thực hiện có rất nhiều điều vướng mắc, có khi ủy quyền lại nhằm che dấu một hành vi phạm pháp khác mà khi giao dịch các chủ thể không biết hoặc cố tình không biết để thực hiện nhằm thu lợi bất chính từ những sơ hở của việc ủy quyền, đặc biệt là trong các giao dịch ủy quyền cầm cố thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của bên thứ ba cho khách hàng ký hợp đồng tín dụng vay vốn từ ngân hàng. Cùng một vụ việc nhưng khi xử lý lại có những quan niệm, cách hiểu và thậm chí là cách vận dụng pháp luật khác nhau dẫn đến bên bị thiệt hại từ những sơ hở của việc ủy quyền lại là ngân hàng nơi cho vay khách hàng mà trong hoạt động của các ngân hàng đôi khi không thể lường trước được.
Tình huống thực tế
Người đại diện theo pháp luật của Công ty A có làm giấy ủy quyền cho Phó giám đốc đại diện cho Công ty A ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa Công ty A với Ngân hàng X. Công ty A vay vốn Ngân hàng hàng X để mua ô tô kinh doanh dịch vụ taxi. Sau khi kiểm tra xem xét hồ sơ và các tài liệu, cán bộ tín dụng Ngân hàng X xác định hồ sơ pháp lý hợp lệ, Phó giám đốc Công ty A đã có ủy quyền từ Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty A nên đã đề xuất cho vay với thời hạn 5 năm.
Việc cho vay và trả nợ đang diễn ra rất tốt đẹp đến năm thứ 3 thì Công ty A không trả nợ vì tình hình kinh doanh dịch vụ vận tại bị thua lỗ. Ngân hàng X đã nhiều lần yêu cầu Công ty A thực hiện trả nợ nhưng Công ty A vẫn không tiến hành thực hiện nghĩa vụ nên Ngân hàng X đã khởi kiện Công ty A ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mới phát hiện, việc Phó giám đốc Công ty A ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản là không đúng thẩm quyền vì thời hạn ủy quyền đã hết, đồng thời, do Công ty A là công ty cổ phần và việc vay vốn để đầu tư, phát triển Công ty A, theo quy định tại Điều lệ phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Tại bản án của Tòa án đã tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu đã dẫn đến Ngân hàng X bị thiệt hại.
Ngân hàng Y làm ủy quyền cho cán bộ pháp chế đại diện cho Ngân hàng Y để khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án. Trên quyết định ủy quyền có ghi đầy đủ các thông tin về người ủy quyền, người được ủy quyền, nội dung ủy quyền, thời hạn ủy quyền. Tuy nhiên, khi Tòa án tiếp nhận đơn khởi kiện và quyết định ủy quyền, Tòa án đã không thụ lý và yêu cầu Ngân hàng Y phải làm lại quyết định ủy quyền của người đại diện pháp luật của Ngân hàng Y cho cán bộ pháp chế vì Tòa án không chấp nhận ủy quyền thường xuyên mà phải ủy quyền trực tiếp.
Tương tự là trường hợp tại Ngân hàng Z, khi người đại diện pháp luật ủy quyền cho cán bộ pháp chế khởi kiện trong phần ủy quyền chỉ ghi ông Nguyễn Văn B ủy quyền cho ông Nguyễn Văn C mà thiếu mất phần đại diện Ngân hàng Z là ông Nguyễn văn B… nên Tòa án cũng đã trả lại đơn khởi kiện.
Pháp luật quy định về ủy quyền
Theo quy định tại Bộ luật dân sự thì pháp nhân là một chủ thể của pháp luật, Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của pháp nhân, của người đại diện. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện và không được xác lập giao dịch, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Người đại diện theo pháp luật có thể uỷ quyền lại cho người khác thay mình thực hiện các giao dịch dân sự của người đại diện.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự nói trên, câu hỏi được đặt ra là cá nhân ủy quyền hay ngân hàng ủy quyền và ủy quyền thường xuyên theo thời gian dài cho cấp dưới tham gia tố tụng tại Tòa án có đúng theo quy định của Pháp luật và yêu cầu của Tòa án. Đồng thời, đối với hoạt động cho vay tại các ngân hàng, việc kiểm tra hồ sơ pháp lý của khách hàng nếu không phải người đại diện theo pháp luật của khách hàng ký hợp đồng tín dụng thì khi xem xét yếu tố ủy quyền ngân hàng phải xem xét những yếu tố nào để đảm bảo tính pháp lý trong hồ sơ cho vay.
Thực tế áp dụng
Từ thực tiễn tham gia tố tụng tại Tòa án và quá trình cho vay khách hàng có thể thấy rằng: người đại diện theo pháp luật của mỗi pháp nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh có đầy đủ quyền để ủy quyền cho cấp dưới của pháp nhân (có thể ủy quyền cho người đứng đầu chi nhánh hoặc những người khác trong pháp nhân) tham gia tố tụng tại các cấp xét xử của Tòa án hay ký các hợp đồng tín dụng vay vốn từ ngân hàng tùy theo từng loại hình doanh nghiệp. Việc uỷ quyền phải có thoả thuận về thời gian, nếu không có thoả thuận, uỷ quyền coi như chấm dứt sau một năm kể từ ngày uỷ quyền có hiệu lực.
Quay trở lại với tình huống đã nêu, việc thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng đã rất sơ hở khi không kiểm tra hồ sơ pháp lý trong đó có ủy quyền của Phó giám đốc đã hết thời hạn nhưng cán bộ tín dụng vẫn đề xuất cho vay dẫn đến thiệt hại xảy ra cho ngân hàng. Việc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền thường xuyên mà không ủy quyền từng lần cho việc tham gia tố tụng của pháp nhân tại Tòa án có thẩm quyền là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về ủy quyền và chế định người đại diện theo pháp luật. Việc Tòa án từ chối ủy quyền thường xuyên của pháp nhân là không có cơ sở.
Từ những tình huống phát sinh và việc Tòa án không chấp nhận ủy quyền, để tránh nhầm lẫn cũng như thiệt hại xảy ra liên quan đến việc ủy quyền trong hoạt động của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng, chúng tôi xin đề xuất một số cách thức nhận biết liên quan đến việc ủy quyền:
Thứ nhất: Đối với bộ hồ sơ pháp lý trong bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng khi xem xét cần lưu ý về thời hạn ủy quyền, nội dung ủy quyền, xem xét mô hình hoạt động của doanh nghiệp để tránh trường hợp người được ủy quyền không có quyền ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay nhưng vẫn đề xuất cho vay dẫn đến thiệt hại.
Thứ hai: Đối với hoạt động của các doanh nghiệp là khách hàng vay vốn của ngân hàng, cán bộ tín dụng cần lưu ý phân biệt được người đại diện đương nhiên, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền lại của doanh nghiệp.
- Người đại diện đương nhiên: Được thể hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trong Điều lệ.
- Người đại diện theo ủy quyền: Là đại diện theo ủy quyền của người đại diện đương nhiên và phải lập thành văn bản thể hiện các nội dung theo đúng quy định của Bộ luật dân sự.
- Người đại diện theo ủy quyền lại: Là đại diện do người được ủy quyền, ủy quyền lại cho người thứ ba, nhưng cần lưu ý, việc ủy quyền lại phải được người đại diện đương nhiên (người ủy quyền ban đầu) đồng ý và người được ủy quyền lại không được ủy quyền lại cho người thứ tư.
Thứ ba: Khi ủy quyền tham gia tố tụng của pháp nhân tại Tòa án cần lưu ý trong mục người ủy quyền bắt buộc phải ghi (Ngân hàng…, người đại diện theo pháp luật… ủy quyền cho …) để đảm bảo việc ủy quyền là ngân hàng ủy quyền chứ không phải cá nhân người đại diện theo pháp luật ủy quyền.
Thứ tư: Trường hợp ủy quyền thương xuyên nhưng Tòa án vẫn không chấp nhận hồ sơ khởi kiện vì cho rằng phải ủy quyền từng lần vào từng vụ việc cụ thể, ngân hàng nơi Tòa án từ chối hồ sơ cần làm việc cụ thể, đưa ra những căn cứ pháp luật để thống nhất với Tòa án nơi thụ lý hồ sơ, tránh việc công văn qua lại mất thời gian gây cản trở cho việc thu hồi nợ từ ngân hàng vì thời gian xử lý càng lâu thì tài sản bảo đảm của khách hàng càng mất giá trị
Chính vì ủy quyền là sự thỏa thuận nên khi thực hiện có rất nhiều điều vướng mắc, có khi ủy quyền lại nhằm che dấu một hành vi phạm pháp khác mà khi giao dịch các chủ thể không biết hoặc cố tình không biết để thực hiện nhằm thu lợi bất chính từ những sơ hở của việc ủy quyền, đặc biệt là trong các giao dịch ủy quyền cầm cố thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của bên thứ ba cho khách hàng ký hợp đồng tín dụng vay vốn từ ngân hàng. Cùng một vụ việc nhưng khi xử lý lại có những quan niệm, cách hiểu và thậm chí là cách vận dụng pháp luật khác nhau dẫn đến bên bị thiệt hại từ những sơ hở của việc ủy quyền lại là ngân hàng nơi cho vay khách hàng mà trong hoạt động của các ngân hàng đôi khi không thể lường trước được.
Tình huống thực tế
Người đại diện theo pháp luật của Công ty A có làm giấy ủy quyền cho Phó giám đốc đại diện cho Công ty A ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa Công ty A với Ngân hàng X. Công ty A vay vốn Ngân hàng hàng X để mua ô tô kinh doanh dịch vụ taxi. Sau khi kiểm tra xem xét hồ sơ và các tài liệu, cán bộ tín dụng Ngân hàng X xác định hồ sơ pháp lý hợp lệ, Phó giám đốc Công ty A đã có ủy quyền từ Giám đốc - người đại diện theo pháp luật của Công ty A nên đã đề xuất cho vay với thời hạn 5 năm.
Việc cho vay và trả nợ đang diễn ra rất tốt đẹp đến năm thứ 3 thì Công ty A không trả nợ vì tình hình kinh doanh dịch vụ vận tại bị thua lỗ. Ngân hàng X đã nhiều lần yêu cầu Công ty A thực hiện trả nợ nhưng Công ty A vẫn không tiến hành thực hiện nghĩa vụ nên Ngân hàng X đã khởi kiện Công ty A ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mới phát hiện, việc Phó giám đốc Công ty A ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài sản là không đúng thẩm quyền vì thời hạn ủy quyền đã hết, đồng thời, do Công ty A là công ty cổ phần và việc vay vốn để đầu tư, phát triển Công ty A, theo quy định tại Điều lệ phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Tại bản án của Tòa án đã tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu đã dẫn đến Ngân hàng X bị thiệt hại.
Ngân hàng Y làm ủy quyền cho cán bộ pháp chế đại diện cho Ngân hàng Y để khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án. Trên quyết định ủy quyền có ghi đầy đủ các thông tin về người ủy quyền, người được ủy quyền, nội dung ủy quyền, thời hạn ủy quyền. Tuy nhiên, khi Tòa án tiếp nhận đơn khởi kiện và quyết định ủy quyền, Tòa án đã không thụ lý và yêu cầu Ngân hàng Y phải làm lại quyết định ủy quyền của người đại diện pháp luật của Ngân hàng Y cho cán bộ pháp chế vì Tòa án không chấp nhận ủy quyền thường xuyên mà phải ủy quyền trực tiếp.
Tương tự là trường hợp tại Ngân hàng Z, khi người đại diện pháp luật ủy quyền cho cán bộ pháp chế khởi kiện trong phần ủy quyền chỉ ghi ông Nguyễn Văn B ủy quyền cho ông Nguyễn Văn C mà thiếu mất phần đại diện Ngân hàng Z là ông Nguyễn văn B… nên Tòa án cũng đã trả lại đơn khởi kiện.
Pháp luật quy định về ủy quyền
Theo quy định tại Bộ luật dân sự thì pháp nhân là một chủ thể của pháp luật, Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có quyền quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của pháp nhân, của người đại diện. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện và không được xác lập giao dịch, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Người đại diện theo pháp luật có thể uỷ quyền lại cho người khác thay mình thực hiện các giao dịch dân sự của người đại diện.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự nói trên, câu hỏi được đặt ra là cá nhân ủy quyền hay ngân hàng ủy quyền và ủy quyền thường xuyên theo thời gian dài cho cấp dưới tham gia tố tụng tại Tòa án có đúng theo quy định của Pháp luật và yêu cầu của Tòa án. Đồng thời, đối với hoạt động cho vay tại các ngân hàng, việc kiểm tra hồ sơ pháp lý của khách hàng nếu không phải người đại diện theo pháp luật của khách hàng ký hợp đồng tín dụng thì khi xem xét yếu tố ủy quyền ngân hàng phải xem xét những yếu tố nào để đảm bảo tính pháp lý trong hồ sơ cho vay.
Thực tế áp dụng
Từ thực tiễn tham gia tố tụng tại Tòa án và quá trình cho vay khách hàng có thể thấy rằng: người đại diện theo pháp luật của mỗi pháp nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh có đầy đủ quyền để ủy quyền cho cấp dưới của pháp nhân (có thể ủy quyền cho người đứng đầu chi nhánh hoặc những người khác trong pháp nhân) tham gia tố tụng tại các cấp xét xử của Tòa án hay ký các hợp đồng tín dụng vay vốn từ ngân hàng tùy theo từng loại hình doanh nghiệp. Việc uỷ quyền phải có thoả thuận về thời gian, nếu không có thoả thuận, uỷ quyền coi như chấm dứt sau một năm kể từ ngày uỷ quyền có hiệu lực.
Quay trở lại với tình huống đã nêu, việc thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng đã rất sơ hở khi không kiểm tra hồ sơ pháp lý trong đó có ủy quyền của Phó giám đốc đã hết thời hạn nhưng cán bộ tín dụng vẫn đề xuất cho vay dẫn đến thiệt hại xảy ra cho ngân hàng. Việc người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền thường xuyên mà không ủy quyền từng lần cho việc tham gia tố tụng của pháp nhân tại Tòa án có thẩm quyền là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự về ủy quyền và chế định người đại diện theo pháp luật. Việc Tòa án từ chối ủy quyền thường xuyên của pháp nhân là không có cơ sở.
Từ những tình huống phát sinh và việc Tòa án không chấp nhận ủy quyền, để tránh nhầm lẫn cũng như thiệt hại xảy ra liên quan đến việc ủy quyền trong hoạt động của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng, chúng tôi xin đề xuất một số cách thức nhận biết liên quan đến việc ủy quyền:
Thứ nhất: Đối với bộ hồ sơ pháp lý trong bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng khi xem xét cần lưu ý về thời hạn ủy quyền, nội dung ủy quyền, xem xét mô hình hoạt động của doanh nghiệp để tránh trường hợp người được ủy quyền không có quyền ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay nhưng vẫn đề xuất cho vay dẫn đến thiệt hại.
Thứ hai: Đối với hoạt động của các doanh nghiệp là khách hàng vay vốn của ngân hàng, cán bộ tín dụng cần lưu ý phân biệt được người đại diện đương nhiên, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền lại của doanh nghiệp.
- Người đại diện đương nhiên: Được thể hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trong Điều lệ.
- Người đại diện theo ủy quyền: Là đại diện theo ủy quyền của người đại diện đương nhiên và phải lập thành văn bản thể hiện các nội dung theo đúng quy định của Bộ luật dân sự.
- Người đại diện theo ủy quyền lại: Là đại diện do người được ủy quyền, ủy quyền lại cho người thứ ba, nhưng cần lưu ý, việc ủy quyền lại phải được người đại diện đương nhiên (người ủy quyền ban đầu) đồng ý và người được ủy quyền lại không được ủy quyền lại cho người thứ tư.
Thứ ba: Khi ủy quyền tham gia tố tụng của pháp nhân tại Tòa án cần lưu ý trong mục người ủy quyền bắt buộc phải ghi (Ngân hàng…, người đại diện theo pháp luật… ủy quyền cho …) để đảm bảo việc ủy quyền là ngân hàng ủy quyền chứ không phải cá nhân người đại diện theo pháp luật ủy quyền.
Thứ tư: Trường hợp ủy quyền thương xuyên nhưng Tòa án vẫn không chấp nhận hồ sơ khởi kiện vì cho rằng phải ủy quyền từng lần vào từng vụ việc cụ thể, ngân hàng nơi Tòa án từ chối hồ sơ cần làm việc cụ thể, đưa ra những căn cứ pháp luật để thống nhất với Tòa án nơi thụ lý hồ sơ, tránh việc công văn qua lại mất thời gian gây cản trở cho việc thu hồi nợ từ ngân hàng vì thời gian xử lý càng lâu thì tài sản bảo đảm của khách hàng càng mất giá trị