HOT Case Study - Tài sản chung của vợ chồng trong giao dịch tại ngân hàng

Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhưng lại mang nhiều rủi ro, có những rủi ro có thể thấy trước, nhưng cũng có rủi ro tiềm ẩn. Có những rủi ro xuất phát từ mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn, tăng trưởng dư nợ mà những người đứng đầu ngân hàng phải thực hiện để đạt chỉ tiêu kế hoạch được giao nhưng cũng có rủi ro liên quan đến pháp lý mà khi thực hiện ngân hàng không biết, chỉ đến khi vụ việc được cơ quan pháp luật thụ lý, giải quyết ngân hàng mới biết những sai phạm pháp lý xuất phát từ đâu, từ thời điểm nào.

Hàng ngày, hàng giờ những cán bộ tín dụng, những giao dịch viên tại ngân hàng phải thực hiện rất nhiều các giao dịch tiền gửi, giao dịch tiền vay với khách hàng. Có nhiều đối tượng khách hàng và cũng có nhiều loại giao dịch. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin chia sẻ những kinh nghiệm thực tế phát sinh khi ngân hàng thực hiện giao dịch tiền gửi, tiền vay liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.

Tình huống thực tế 1

Bà D là người đại diện theo pháp luật của Công ty X. Do Công ty X mở rộng kinh doanh nên cần vốn huy động từ những người trong công ty, bản thân bà D cũng đóng góp căn nhà thuộc sở hữu của mình (bà D là người duy nhất đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà) thế chấp vào Ngân hàng M để Công ty X vay vốn. Việc vay vốn đối với Công ty X được cán bộ tín dụng thẩm định và nhận thấy không có vấn đề gì bất ổn, tài sản thế chấp là ngôi nhà đứng tên sở hữu là bà D có giá trị và tính thanh khoản rất cao nếu Công ty X không trả được nợ việc xử lý tài sản thế chấp thu hồi vốn vay sẽ thuận lợi vì bà D đã cam kết giao tài sản cho Ngân hàng M xử lý nếu Công ty X không trả được nợ.

Bên cạnh đó, để tránh Hợp đồng thế chấp vô hiệu, cán bộ tín dụng đã đề xuất, bà D - là Người đại diện theo pháp luật của Công ty X ủy quyền lại cho Phó giám đốc ký Hợp đồng tín dụng còn bà D sẽ ký Hợp đồng thế chấp để tránh xẩy ra trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp là 1 người ký sẽ không đảm bảo tính khách quan cũng như không tuân thủ quy định tại Khoản 5 Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005 (*), vì người đại diện của khách hàng vay vốn đang thực hiện giao dịch dân sự với chính mình (bên thế chấp tài sản) hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện.

Nhận thấy không có điều gì bất ổn, cán bộ tín dụng đã đề xuất cho vay và được người đứng đầu Ngân hàng M phê duyệt đồng ý. Công ty X sau khi vay vốn đã trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Tuy nhiên, đến tháng thứ 6, Công ty X bỗng nhiên không trả nợ và lý do đưa ra là do đang gặp khó khăn về tài chính không thể trả nợ được và đề nghị Ngân hàng M cơ cấu lại khoản nợ để Công ty X có thời gian trả nợ.

Ngân hàng M sau khi tiếp nhận đề nghị của khách hàng đã đồng ý cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho Công ty X. Nhưng đã 4 tháng sau thời hạn cơ cấu nợ, Công ty X vẫn không trả nợ mặc dù Ngân hàng M đã liên tục gặp mặt làm việc nhưng kết quả vẫn không có gì thay đổi. Nhận thấy khoản vay có nguy cơ mất vốn, mọi việc thu nợ bây giờ dồn hết vào tài sản thế chấp, Ngân hàng M đã tiến hành và hoàn thiện các thủ tục để phát mại tài sản thế chấp của bà D. Khi Ngân hàng M chuẩn bị đấu giá quyền sử dụng đất và sở hữu nhà đứng tên bà D thì ông K đến yêu cầu Ngân hàng M không được xử lý tài sản thế chấp là ngôi nhà đứng tên chủ sở hữu là bà D với lý do tài sản này là tài sản chung của vợ chồng. Khi bà D thực hiện thủ tục thế chấp đã không hỏi ý kiến của ông. Ngân hàng M không đồng ý và vẫn tiếp tục các thủ tục để bán đấu giá theo đúng quy định. Không bằng lòng với cách xử lý của Ngân hàng M, ông K đã tiến hành khởi kiện Ngân hàng M để đòi lại tài sản.

Tại bản án của Tòa án đã tuyên Hợp đồng thế chấp giữa bà D và Ngân hàng M vô hiệu một phần vì tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà đứng tên bà D là tài sản chung của vợ chồng ông K và bà D.

Việc Ngân hàng nhận thế chấp mà chưa có sự đồng ý của ông K là không đúng theo quy định mặc dù ông K và bà D đã ly hôn nhưng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà đứng tên bà D đã được ông K và bà D cùng thống nhất vẫn là tài sản sở hữu chung để sau này cho con chung của hai ông bà. Tài sản được thỏa thuận không được bán, không được thế chấp hay làm bất cứ những việc gì liên quan mà không được sự đồng ý của cả hai bên ông K và bà D. Việc thỏa thuận cũng đã được Tòa án nơi thụ lý việc ly hôn giữa ông K và bà D xác nhận.

(*) Khoản 5 Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2005: Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó…

400x300_2.jpg

Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng


Tình huống thực tế 2

Vào ngày trung tuần tháng 10/2016, ông T cùng vợ đến Ngân hàng Z để gửi tiết kiệm 10 tỷ đồng, giao dịch viên sau khi trao đổi với ông T đã mở tài khoản và phát hành thẻ tiết kiệm đứng tên ông T với thời hạn gửi là 12 tháng và không được rút trước hạn. Sau khi hoàn thiện mọi thủ tục, ông T ra về cùng với thẻ tiết kiệm mang tên mình. Khi đến thời hạn rút tiền tiết kiệm ông T đến Ngân hàng Z thực hiện các thủ tục cần thiết để lấy toàn bộ tiền gốc và lãi.

Tuy nhiên, khi giao dịch viên tại Ngân hàng Z đang thực hiện tất toán thì bà H xuất hiện với đề nghị Ngân hàng Z không được cho ông T rút tiền (gốc và lãi) trên thẻ tiết kiệm đứng tên ông T. Bà H cho rằng đây là số tiền thuộc sở hữu chung của bà và ông T, hai ông bà đang làm thủ tục ly hôn. Nếu Ngân hàng Z cho ông T rút tiền thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Trong khi đó, ông T khẳng định số tiền đứng tên trên thẻ tiết kiệm là tiền riêng của ông và không liên quan đến tài sản chung của vợ - chồng. Ông cần phải tất toán thẻ tiết kiệm trong ngày để trả tiền cho đối tác làm ăn, nếu không trả thì sẽ bị phạt do chậm thanh toán. Nếu Ngân hàng Z không cho ông T rút tiền để ông bị đối tác thì Ngân hàng Z sẽ phải chịu số tiền phạt đó.
Đứng trước tình huống này, giao dịch viên Ngân hàng Z sẽ phải làm gì và quy trình thực hiện như thế nào để không bị vướng trách nhiệm pháp lý khi thực hiện?

Pháp luật quy định về tài sản của vợ chồng

Theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng; tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng; trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung…”.

Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng nếu tài sản là bất động sản; động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình. Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó nhưng thỏa thuận này phải lập thành văn bản.

Về nguyên tắc, khi vợ chồng ly hôn, tài sản chung sẽ được hai bên vợ chồng thỏa thuận phân chia, nếu không phân chia được thì sẽ nhờ Tòa án giải quyết và hầu hết tài sản chung sẽ được chia đôi theo quy định nhưng sẽ được tính dựa trên các nguyên tắc như hoàn cảnh của gia đình của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung.

Đối với tài sản riêng của vợ chồng mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng nếu trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của vợ chồng.

Chúng ta quay trở lại với tình huống thứ 1, câu hỏi đặt ra, lỗi bắt đầu từ đâu? Cán bộ tín dụng khi thẩm định hồ sơ vay vốn, hồ sơ pháp lý đã bỏ sót thỏa thuận giữa ông K và bà D liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu căn nhà đứng tên bà D và trách nhiệm pháp lý của cán bộ tín dụng cũng như trách nhiệm pháp lý của những người phê duyệt khoản vay tại Ngân hàng M sẽ được xem xét vì khoản vay đã bị thiệt hại, Ngân hàng M cho vay nhưng không thu hồi được vốn.

Ở tình huống thực tế thứ 2, nếu là giao dịch viên bạn sẽ xử lý như thế nào? Có cho ông T rút tiền không? Nếu không cho ông T rút tiền thì khoản tiền bị đối tác phạt của ông T có thể Ngân hàng Z phải chịu trách nhiệm. Nếu cho ông T rút tiền thì bà H kiện Ngân hàng Z vì cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng.

Thực tế khi thực hiện xử lý tình huống này, giao dịch viên cần chú ý, Luật Hôn nhân gia đình quy định rất rõ đối với người đứng tên mở tài khoản. Dù là tiền trong tài khoản có là tài sản chung, nhưng do chồng hoặc vợ đứng tên thì người nào đứng tên sẽ có toàn quyền giao dịch đối với tài khoản đó. Việc ông T đứng tên trên thẻ tiết kiệm, ông T hoàn toàn có quyền rút gốc, lãi đối với sổ tiết kiệm mang tên ông mà không liên quan đến việc yêu cầu của bà H.

Nếu trường hợp bà H yêu cầu Ngân hàng Z cung cấp mọi thông tin liên quan đến giao dịch gửi, rút tiền và thông tin tài khoản của ông T để bà T làm bằng chứng sau này yêu cầu Tòa án chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi ly hôn vì cho rằng đây là số tiền thuộc sở hữu chung thì giao dịch viên Ngân hàng Z tuyệt đối không được thực hiện theo yêu cầu của bà H. Theo quy định về cung cấp thông tin do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước quy định đối với tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng thì chỉ khách hàng (người đứng tên trên tài khoản) hoặc người được khách hàng ủy quyền, hoặc việc cung cấp phục vụ công việc nội bộ của ngân hàng hoặc cung cấp theo yêu cầu của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo quy định của pháp luật mới có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng.

400x300_1.jpg

Khi khách hàng dùng tài sản thuộc sở hữu vợ chồng thế chấp cho khoản vay
tại ngân hàng, cần yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký chấp thuận


Bài học kinh nghiệm

Trên cơ sở những tình huống đã phát sinh trong thực tế khi khách hàng giao dịch với ngân hàng, chúng tôi đề xuất những kinh nghiệm và cách thức xử lý tình huống với mong muốn phần nào đó giúp cho hoạt động của Ngân hàng nói chung và các công việc của chính cán bộ tín dụng, của giao dịch viên tuân thủ quy định của pháp luật, đảm bảo trách nhiệm pháp lý của mỗi cá nhân khi thực hiện.

Thứ nhất: Khi khách hàng dùng tài sản thuộc sở hữu vợ chồng thế chấp cho khoản vay tại ngân hàng, cán bộ tín dụng cần yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký chấp thuận. Nếu chồng ký Hợp đồng thế chấp thì người vợ phải có ủy quyền cho chồng, đồng ý với việc thế chấp tài sản thuộc sở hữu chung cho ngân hàng và ngược lại.

Thứ hai: Khi tiến hành thẩm định hồ sơ tín dụng, cán bộ tín dụng chú ý đối với tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng. Cán bộ tín dụng cần phải xác định tình trạng hôn nhân của người thế chấp. Nếu đã ly hôn, phải yêu cầu khách hàng cung cấp biên bản thỏa thuận chia tài sản vợ chồng. Nếu chưa ly hôn, cần xem xét tài sản chung, tài sản riêng của khách hàng khi khách hàng ký Hợp đồng thế chấp, tránh việc khách hàng dùng tài sản chung thế chấp nhưng lại chưa có sự chấp thuận từ người đồng chủ sở hữu tài sản.

Thứ ba: Khi khách hàng gửi tiết kiệm đứng tên trên tài khoản thì khách hàng có toàn quyền giao dịch với tài khoản đó mà không phụ thuộc vào ý chí của vợ hoặc chồng mặc dù tiền khách hàng gửi là tài sản chung của vợ chồng. Giao dịch viên hãy nhớ Luật Hôn nhân và gia đình cho phép.

Thứ tư: Giao dịch viên cần chú ý việc yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng. Không phải ai yêu cầu cũng cung cấp mà việc cung cấp phải tuân thủ quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Chỉ khách hàng (người đứng tên trên tài khoản) hoặc người được khách hàng ủy quyền, việc cung cấp phục vụ công việc nội bộ của ngân hàng hoặc cung cấp theo yêu cầu của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo quy định của pháp luật mới có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi, tài sản gửi của khách hàng.

Sưu tầm
 
TH1 mình thấy cứ vô lý thế nào đó....vì công chứng viên khi công chứng HDTC không thể lơ là như vậy được, họ sẽ yêu cầu bên thế chấp cung cấp đầy đủ tình trạng hôn nhân (trước và khi kết hôn), thậm chí ly hôn thì họ cũng yêu cầu cung cấp đầy đủ hồ sơ để chứng minh tài sản này là riêng của chị Vợ hay không? Nếu chưa chứng minh được Công chứng viên họ không cho thể công chứng vào HĐTC. Mình đã từng làm rất nhiều hồ sơ như thế này và cảm thấy rất yên tâm với Công chứng viên khi họ tư vấn rất kỹ cho nhân viên Ngân hàng. Nên case 1 mình thấy tào lao thế nào ấy.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Tin tuyển dụng mới nhất

Thống kê MXH

Tổng số chủ đề
34,575
Số bình luận
528,081
Tổng số thành viên
351,413
Thành viên mới nhất
kyzsvncuao1333
Back
Bên trên